Hiển thị các bài đăng có nhãn thuốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

Những bài thuốc an thần

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Những bài thuốc an thần

 


Thuốc An thần là những bài thuốc có tác dụng giúp cho người bệnh bớt căng thẳng tinh thần, dễ ngủ, chống lại các cơn kích động tinh thần, lo âu, bứt rứt.
Theo Y học cổ truyền trạng thái tinh thần của con người có liên quan mật thiết đến sự hoạt động và trạng thái hư thực của các tạng phủ nhưng liên quan mật thiết nhất là hai tạng Can và Tâm.
Nếu tinh thần luôn kích động hoặc hưng phấn, bứt rứt, dễ giận dữ, thường là thực chứng thuộc về Can.
Nếu tinh thần không yên biểu hiện hồi hộp khó ngủ hay quên, khó tập trung tư tưởng là hư chứng do tâm huyết kém, tâm thận không điều hòa.
Cho nên phép chữa chính thường là hoặc sơ can lý khí, thanh can hỏa hoặc là dưỡng tâm an thần, nhưng lúc chữa bệnh ngoài việc dùng thuốc cần bồi dưỡng cho bệnh nhân một tinh thần lạc quan yêu đời tạo cho mình một cuộc sống vui tươi lành mạnh, tránh những cảm xúc âm tính (tức giận, buồn bực lo âu, suy nghĩ nhiều) đồng thời phải tăng cường tập luyện cơ thể, chú trọng phương pháp dưỡng sinh kết hợp việc dùng thuốc mới đạt kết quả tốt.
Những bài thuốc thường dùng:
Chu sa an thần
Toan táo nhân thang
Bổ tâm đơn
Bá tử dưỡng tâm hoàn.

CHU SA AN THẦN HOÀN
(Lam thất bí tàng)

Thành phần:
Hoàng liên 6g
Chu sa 4g
Sinh địa 2g
Qui thân 2g
Chích thảo 2g
Cách dùng: Chu sa thủy phi, tất cả tán bột mịn làm hoàn, mỗi lần uống 4 - 12g trước khi đi ngủ với nước nóng hoặc kết hợp uống với thuốc thang theo tình hình bệnh lý.
Tác dụng: Thanh nhiệt, dưỡng huyết an thần.
Giải thích bài thuốc: Bài này chủ trị chứng tâm hỏa vượng làm tổn thương đến tâm âm huyết, lâm sàng biểu hiện tinh thần bứt rứt, khó ngủ, đêm hay nằm mê, đầu lưỡi đỏ, mạch tế sác.
Trong bài này:
Chu sa có tác dụng an tâm thần, thanh tâm hỏa là chủ dược.
Hoàng liên: tính đắng hàn tác dụng thanh nhiệt, tả tâm hỏa.
Sinh địa, Đương qui dưỡng huyết tư âm.
Chích thảo: dưỡng vị hòa trung.
Các vị hợp lại thành bài thuốc có tác dụng thanh tâm an thần, dưỡng âm huyết.
Ứng dụng lâm sàng: Trên lâm sàng bài này thường được dùng chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ hay quên, tim hồi hộp.
1.     Trường hợp có đờm nhiệt làm cho đầy tức gia Qua lâu nhân để khu đàm, thanh nhiệt.
2.     Khó ngủ nhiều gia Liên tử tâm, Toan táo nhân.
3.     Trường hợp tâm hỏa nặng gia Chi tử để thanh tâm hỏa.
Chú ý: Chu sa có độc không nên dùng nhiều hoặc dùng thời gian dài. 

TOAN TÁO NHÂN THANG
(Kim quỹ yếu lược)

Thành phần:
Toan táo nhân 12 - 20g
Phục linh 12g
Cam thảo 4gTri mẫu 8 - 12g
Xuyên khung 4 - 6g
Cách dùng: Sắc nước uống, chỉ hai lần chiều và tối, trước khi đi ngủ.
Tác dụng: Dưỡng huyết an thần, thanh nhiệt trừ phiền.
Giải thích bài thuốc: Chủ trị chứng Can huyết không đủ sinh ra chứng hư phiền, khó ngủ, tim hồi hộp, váng đầu hoa mắt, ra mồ hôi trộm, mồm họng khô, mạch huyền hoặc tế sác.
Cho nên phép chữa phải lấy dưỡng can huyết an tâm thần làm chính, kiêm thanh nhiệt trừ phiền. Trong bài:
Toan táo nhân: dưỡng can an thần là chủ dược.
Xuyên khung: điều hòa huyết, giúp Táo nhân tăng tác dụng an thần.
Tri mẫu: thanh nhiệt trừ phiền.
Cam thảo: kiện tỳ hòa trung.
Các vị thuốc hợp lại có tác dụng chung dưỡng huyết an thần, thanh nhiệt trừ phiền.
Ứng dụng lâm sàng:
Bài thuốc thường dùng chữa mất ngủ trong bệnh suy nhược thần kinh do Can huyết không đủ, có chứng:
1.     Hư nhiệt thường gia thêm Đương quy, Bạch thược, Sinh địa để dưỡng âm huyết, lương huyết, hòa can thanh nhiệt.
2.     Ra mồ hôi nhiều gia Mạch môn, Ngũ vị để an thần liễm hãn.
3.     Nếu tim hồi hộp nhiều, khó ngủ gia Long xỉ để trấn kinh.
4.     Trường hợp tâm khí hư, người mệt mỏi gia Đảng sâm, Long xỉ để ích khí trấn kinh.

BỔ TÂM ĐƠN

THIÊN VƯƠNG BỔTÂM ĐƠN
(Thế y đắc hiệu phương)
Thành phần:
Sinh địa hoàng 160g
Toan táo nhân 40g
Thiên môn đông 40g
Bá tử nhân 40g
Đơn sâm 20g
Đảng sâm 20g
Viễn chí 20g
Ngũ vị tử 40g
Đương quy thân 40g
Mạch môn 40g
Huyền sâm 20g
Bạch linh 20g
Cát cánh 20g
Cách dùng: Tất cả tán bột mịn luyện mật làm hoàn. Lấy Chu sa làm áo. Mỗi lần uống 12g.
Có thể dùng thuốc thang sắc uống.
Tác dụng: Tư âm thanh nhiệt, bổ tâm, an thần.
Giải thích bài thuốc:
Bài này chủ yếu trị chứng tâm thận âm hư, hỏa bốc lên sinh ra hư phiền mất ngủ, mộng tinh, ra mồ hôi trộm, mồm lưỡi lở, tim hồi hộp, hay quên, cho nên phép trị là lấy dưỡng tâm an thần làm chính.
Trong bài:
Sinh địa, Huyền sâm: tư âm thanh nhiệt để dưỡng tâm an thần là chủ dược.
Đơn sâm, Đương quy: bổ huyết, dưỡng tâm.
Đảng sâm, Phục linh: bổ ích tâm khí.
Bá tử nhân, Viễn chí: định tâm an thần.
Thiên môn, Mạch môn: tư âm thanh nhiệt.
Ngũ vị tử, Toan táo nhân: liễm tâm, an thần.
Chu sa: an thần.
Cát cánh: dẫn dược đi lên.
Các vị thuốc hợp lại thành một bài thuốc có tác dụng tư âm, thanh nhiệt, dưỡng tâm an thần.
Ứng dụng lâm sàng:
Trên lâm sàng, thường dùng để chữa suy nhược thần kinh, ngủ kém, tim hồi hộp, hay quên, mộng tinh, ra mồ hôi trộm, có hiệu quả nhất định.
1.     Nếu mất ngủ nhiều, tim hồi hộp gia Long nhãn nhục, Dạ giao đằng để dưỡng tâm an thần.
2.     Trường hợp di tinh, hoạt tinh gia Kim anh tử, Khiếm thực để cố thận , sáp tinh.
3.     Nếu mồm họng khô, môi lưỡi lỡ loét gia Thạch hộc, Hoàng liên, Liên tử tâm để dưỡng vị âm, thanh tâm hỏa.
4.     Bài thuốc có nhiều vị thuốc có tính nê trệ, nên lúc sử dụng cần thận trọng đối với những bệnh nhân tỳ vị hư nhược, rối loạn tiêu hóa, chán ăn.

BÁ TỬ DƯỠNG TÂM HOÀN
(Thế nhân hội biên phương)

Thành phần:
Bá tử nhân 160g
Mạch môn đông 40g
Thạch xương bồ 40g
Huyền sâm 80g
Cam thảo 20g
Câu kỷ tử 120g
Đương quy 40g
Phục thần 40g
Thục địa 80g
Cách dùng: Tất cả tán bột mịn, luyện mật làm hoàn nhỏ. Mỗi lần uống 8 - 12g dùng thuốc thang Đăng tâm hoặc Long nhãn nhục để uống. Có thể dùng thuốc thang sắc uống.
Tác dụng: Dưỡng tâm an thần, bổ thận tư âm.
Giải thích bài thuốc:
Chứng âm huyết bất túc, tâm thận mất sự điều hòa sinh chứng hồi hộp hay sợ, dễ quên, đêm ngủ nhiều mộng, ra mồ hôi trộm, điều trị phải dùng phép bổ huyết dưỡng tâm, tư âm thanh nhiệt.
Trong bài:
Bá tử nhân dùng liều cao tác dụng dưỡng tâm an thần là chủ dược.
Đương quy, Thục địa, Câu kỷ tử: bổ ích tinh huyết.
Huyền sâm, Mạch môn: tư âm thanh nhiệt.
Thạch xương bồ, Phục thần: định tâm an thần.
Cam thảo: điều hòa các vị thuốc.
Các vị thuốc hợp lại thành một bài thuốc có tác dụng điều hòa tâm thận, tư âm dưỡng huyết, định tâm an thần.
Ứng dụng lâm sàng:
1.     Bài thuốc này trên lâm sàng thường dùng chữa chứng suy nhược thần kinh hay quên, hoảng sợ, tim hồi hộp.
2.     Trường hợp ra mồ hôi nhiều (tự hãn, đạo hãn) gia thêm Long cốt, Mẫu lệ, Phù tiểu mạch, Ngũ vị tử hoặc Ma hoàng căn để an thần, cầm mồ hôi.
3.     Trường hợp đêm nằm mộng nhiều ít ngủ, di tinh gia Kim anh tử,
Khiếm thực, Liên tu để an thần liễm tinh.
4.     Trường hợp trí nhớ kém, tinh thần mệt mỏi gia Đảng sâm, Viễn chí, Táo nhân để ích khí an thần.

PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ DƯỢC LIỆU

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Để một vị thuốc dễ dàng được người tiêu dùng chấp nhận, phải chú ý rất nhiều từ khâu sơ chế đến bào chế. Tây y có những quy trình rất rõ về việc bào chế từng vị thuốc. Đông y từ trước đến nay, đa số bào chế theo truyền khẩu, theo kinh nghiệm, ít có đơn vị, cơ quan chính thức làm hẳn công việc này. Ngoài ra việc bào chế thuốc Đông y còn yêu cầu chế biến theo diễn biến bệnh nên có nhiều vị thuốc không thể làm sẵn được.
Quy chế và phương pháp bào chế theo người xưa được mô tả rõ nhất trong quyển ‘Bào Chích Luận’ của Lôi Hiệu, viết khoảng năm 420 – 479. Sau này dựa vào tên tác giả đổi thành ‘Lôi Công Bào Chích’. Quyển sách này hiện nay vẫn còn được coi là quy phạm cho những người bào chế thuốc. 
Một vị thuốc khi đến tay người tiêu dùng thường trải qua 3 giai đoạn:
1- Cách trồng.
2- Thu hái, Sơ chế.
3- Bào chế.
Mỗi khâu đều có kỹ thuật riêng, vì vậy, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu các giai đoạn này để việc chế biến thuốc đạt hiệu quả hơn.
1- CÁCH TRỒNG
Mỗi cây thuốc, vị thuốc có cách trồng hoặc nuôi dưỡng riêng.
- Thời điểm trồng có thể sẽ mang thêm hiệu quả. Thí dụ có những cây trồng vào đầu màu xuân, có cây lai trồng vào dịp hè thu… Nếu trồng sai thời vụ, kết quả thu hoạch sẽ kém hơn.
- Cách chăm sóc cho cây sinh trưởng cũng sẽ giúp thu hoạch đạt năng suất hơn. Thí dụ,  cũng cùng một loại cây, nếu biết phân bón đúng thời điểm, lượng thu hoạch cho 4-5 tấn/hecta so với 1 tấn/ hecta nếu không chăm sóc, phân bót.
 2- THU HÁI
. Xác định đúng thời kỳ thu hái.
+ Đối với cây lấy củ: thu hái lúc cây bắt đầu vàng úa, lá gốc đã già, lúc này hoạt chất tập trung nhiều ở củ.
+ Đối với cây lấy lá: thường thu hái lúc cây ra nụ.
+ Đối với cây lấy tinh dầu: thường thu hoạch vào thời kỳ hoa nở rộ, là lúc hàm lượng tinh dầu thường cao nhất.
. Kỹ thuật thu hái:
+ Nên chọn ngày nắng ráo để dễ dàng trong việc phơi, sấy chế biến.
+ Thu hoạch củ khi đào, tránh làm sây sát hoặc đứt rễ.
+ Thu hoạch lá: cắt lá theo đúng yêu cầu (loại lá già hoặc bánh tẻ…), trải mỏng, không nên xếp đống hoặc vất bừa bài vì lá sẽ bị hấp nóng dễ bị thối ủng.
+ Thu hoạch cây để lấy tinh dầu: Cắt lá sau khi tan hết sương cho đến khoảng 15-16 giờ sẽ đỡ hao tinh dầu.
+ Thu hái vỏ cây thì phải dùng dây thắt ngang cây hoặc cành làm chuẩn rồi dùng dao rạch thành từng miếng cho đều, dễ phơi sấy và uốn thành từng thanh. Nếu bóc tùy tiện sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây và giảm giá trị của vị thuốc.
3- CHẾ BIẾN
Có 2 giai đoạn: Sơ Chế và Bào Chế.
A- SƠ CHẾ
Để bảo quản dược liệu sau khi thu hoạch, cần sơ chế ngay. Mỗi loại dược liệu có cách sơ chế riêng (xem chi tiết trong từng vị thuốc).
+ Các loại lá:
. Nên phơi trong râm cho héo dần, không nên phơi nắng to sẽ làm cho thuốc khô giòn, vụn nát.
. Trước khi phơi hoặc sấy, thường người ta dùng phép ‘diệt men phân hủy’ để giữ nguyên hoạt chất có trong lá. Thí dụ: vị thuốc Cam thảo dây, nếu thu hái xong mà phơi ngay thì lá biến thành mầu nâu xám, vị thuốc không ngọt, hoạt chất giảm đi, nhưng nếu chế biến bằng cách sao lá tươi trên chảo nóng bỏng, sau đó giảm dần lửa cho đến khi khô hẳn thì lá Cam thảo dây vẫn giữ nguyên mầu xanh lục và vị ngọt đậm vì chất Glyxyrizin không bị phá hủy đi.
+ Các loại thân cây có nhựa khô như Thạch hộc, nên luộc sơ qua rồi phơi nắng to cho khô
+ Các loại củ, phải sấy từ từ, lúc đầu nhiệt độ khoảng 40 – 500C, sau tăng dần lên 70 – 800C, để tránh tình trạng bên ngoài vỏ đã khô mà trong ruột còn ướt.
Các giai đoạn chế biến dược liệu:
THÁI, BÀO
Dùng dao cắt dược liệu thành những miếng mỏng.
Đa số các nhà thuốc đều mua loại dao chế sẵn, tùy theo yêu cầu dược liệu,  gọi là Dao Cầu, Dao Bào hoặc Dao Thái.
+ Dao Cầu: Bản dao to hơn, thường dùng thái các dược liệu to và cứng.
+ Dao Bào: có hình dáng giống chiếc bào gỗ của thợ mộc, thường dùng để cắt những dược liệu đã được ủ mềm cho đều và không bị nát vụn như Đương quy, Thương truật, Xuyên khung…
+ Dao Thái: Loại dao sắc để cắt dược liệu nhỏ, mềm như lá: Bạc hà, Kinh giới…
TÁN
Làm cho dược liệu trở thành dạng bột nhuyễn, mịn.
Có thể dùng hai cách sau:
+ Tán bằng Chầy và Cối:
- Cối có nhiều loại: bằng gỗ, bằng đá, bằng đồng, bằng sắt… Hiện nay có nhiều nơi chế bằng nhựa cứng. Nên lựa loại có lòng sâu để chứa được nhiều thuốc và đỡ bắn thuốc ra ngoài.
- Chầy có thể bằng gỗ hoặc bằng nhựa. Nhiều nơi bọc đầu chầy bằng một miếng đồng để tăng sức giã nát thuốc. Ở thân của chầy, nên làm một miếng che bằng da để che thuốc khỏi bắn ra ngoài mỗi khi chầy nện xuống cối thuốc.
Cho dược liệu vừa đủ vào cối, nhiều quá thì thuốc khó giã mà dễ bị bắn ra ngoài; Nếu thuốc ít quá, chầy có thể đập mạnh vào lòng cối, dễ gây vỡ cối…
Nếu dược liệu thuộc loại mềm, nếu giã sẽ làm cho thuốc dính lại thành tảng. Trường hợp này nên dùng cách nghiền: Không nhấc cao chầy ra khỏi cối mà đưa đầu chầy xoay thành vòng tròn, ép mạnh dược liệu vào thành cối cho nát.
+ Tán bằng Thuyền Tán: Nếu dược liệu cứng, khó cắt, cần nghiền nát với số lượng lớn thì nên dùng Thuyền tán. Thuyền tán đa số làm bằng gang, giống hình một chiếc thuyền. Khi cần tán, cho dược liệu vào lòng thuyền (sau khi đã cắt nhỏ hoặc sao khô), dùng một bánh xe cũng bằng gang có cạnh sắc lăn qua, lăn lại cho đến khi dược liệu bị phân chia nhỏ ra.
Hiện nay, có thể dùng máy tán vừa nhanh vừa đỡ mất sức mà dược liệu đạt độ mịn hơn.
RÂY
Sau khi đã tán dược liệu thành bột, tùy yêu cầu chế biến mà dùng các loại rây khác nhau để tạo nên bột có độ mịn khác nhau.
+ Nếu làm thành bột uống thì càng mịn càng tốt cho dễ uống.
+ Nếu dùng để chế thành viên hoặc hoàn tễ thì không cần mịn lắm cũng được..
SAO
- Sao là phương pháp dùng hơi nóng của lửa làm cho thuốc khô, sém vàng hoặc cháy đen. Mục đích để thay đổi tính năng của thuốc theo ý muốn của người dùng.
- Dụng cụ để sao: thường là chảo bằng gang hoặc nồi bằng đất và một đôi đũa to để đảo thuốc.
- Có nhiều cách sao thường dùng:
+ Sao vàng: Sao cho đến khi vị thuốc bên ngoài có mầu vàng nhưng trong ruột vẫn còn mầu như cũ. Khi sao, để lửa nhỏ, thời gian sao lâu. Mục đích để cho thuốc bớt tính hàn.
+ Sao vàng hạ thổ: Quét sạch đất, sau khi sao thuốc xong, đổ trải thuốc ra nền đất sạch, đậy lại, để khoảng 15 phút cho thuốc nguội. Mục đích để khử hỏa độc do sao nóng của vị thuốc, làm cho thuốc tăng thêm phần âm của đất để điều hòa âm dương (khí của đất là âm, khí của hỏa nhiệt khi sao thuốc là dương).
+ Sao vàng xém cạnh: Sao làm cách nào để mặt ngoài thuốc hơi vàng xém nhưng bên trong ruột không thay đổi mầu. Cách sao này thường dùng đối với vị thuốc quá chua, chát như Hạt cau, Trần bì, Chỉ thực…
+ Sao đen: Dùng lửa to, dợi khi chảo thật nóng thì cho thuốc vào, đảo đều cho đến khi thấy bên ngoài cháy đen, bẻ ra thấy bên trong mầu vàng là được. Thường dùng để sao Toan táo nhân, Chi tử, Kinh giới… Nhằm mục đích tăng tác dụng cầm máu hoặc tiêu thực của vị thuốc.
+ Sao tồn tính: Sao cho gần cháy hết nhưng chưa thành than. Dùng lửa to, để cho chảo thật nóng, cho thuốc vào đảo đều cho đến khi thấy khói bốc lên nhiều, bắc chảo xuống, đậy nắp lại cho hơi nóng nung nấu thuốc rồi để nguội dùng. Thường dùng để tăng tác dụng cầm máu của thuốc như Trắc bá diệp, Cỏ mực…
+ Sao với cát: Chọn loại cát nhỏ, mịn, rang cho nóng rồi mới cho thuốc vào, trộn cho thật đều. Mục đích sao với cát là để lấy sức nóng lâu của cát làm cho thuốc càng, phồng đều nhưng không cháy. Thường dùng sao các vị Xuyên sơn giáp, Phá cố chỉ…
+ Sao với bột Hoạt thạch, Cáp phấn: để làm cho các vị thuốc có độ dẻo, có chất keo, chất nhựa, dầu… không dính vào nhau như A giao, Một dược, Nhũ hương…
+ Sao với cám: để rút bớt tinh dầu của vị thuốc ra như Chỉ thực, Thương truật, Trần bì…
TẨM
Mục đích là làm cho một chất lỏng khác thấm vào được thuốc.
Các chất lỏng dùng để tẩm thường là Rượu, Giấm, nước Muối, nước cốt Gừng, Đồng tiện (nước tiểu trẻ nhỏ)…. Thời gian ngâm từ 2 – 4 giờ hoặc có khi phải ngâm qua đêm, ngâm mấy ngày… tùy yêu cầu của từng vị thuốc. Sau đó lại sao cho khô.
Trung bình, cứ 1kg thuốc ngâm với 50 – 200ml.
+ Tẩm Rượu:
- Dùng rượu 30 – 400,  trộn với thuốc, ngâm khoảng 2-3 giờ rồi sao vàng.
- Mục đích để giảm bớt tính hàn của thuốc, tăng thêm độ ấm.
- Rượu có tác dụng bốc và dẫn nhanh, vì vậy giúp cho thuốc đi nhanh ra các bộ phận cần dẫn thuốc đến.
+ Tẩm Nước Muối:
- Dùng nước muối 20%, ngâm chung với thuốc 2 – 3 giờ rồi sao vàng. Thường dùng muối với tỉ lệ 5% so với thuốc, để làm cho thuốc thêm mặn.
- Vị mặn là vị của Thận, vì thế muốn cho thuốc dẫn vào Thận, thì tẩm với nước muối.
+ Tẩm Giấm:
- Dùng 5% lượng Giấm ăn so với thuốc, ngâm ngập thuốc, để khoảng 1 – 2 giờ, đem sao.
- Vị chua đi vào kinh Can, vì vậy tẩm Giấm để dẫn thuốc đi vào Can.
+ Tẩm Đồng Tiện
- Dùng nước tiểu của trẻ nhỏ khỏe mạnh (lượng dùng là 5% so với thuốc), ngâm với thuốc từ 12 – 48 giờ rồi sao vàng.
- Tẩm nước tiểu để dẫn thuốc vào phần huyết và giáng hỏa.
+ Tẩm Nước Cốt Gừng
- Dùng Gừng tươi (Sinh khương) rửa sạch, giã nát, cho váo ít nước, vắt lấy nước cốt, ngâm với thuốc khoảng 1 giờ rồi sao vàng. Lượng nước cốt Gừng dùng theo tỉ lệ 5 – 15% so với thuốc, tức là 50g – 150g Gừng tươi cho 1kg thuốc.
- Gừng có tính ôn ấm, kích thích tiêu hóa, vì vậy, tẩm vào thuốc sẽ giúp cho thuốc đó bớt hàn, tăng tác dụng kiện Tỳ, hòa Vị, kích thích tiêu hóa.
+ Tẩm Mật
Theo các tài liệu cổ thường là tẩm Mật Ong, nhưng hiện nay, đa số là tẩm Mật Mía. Thường pha một phần mật với một phần nước cho loãng rồi ngâm với thuốc khoảng 4 – 6 giờ. Mục đích tẩm Mật để giảm bớt vị đắng, chát của thuốc.
Vị ngọt đi vào Tỳ, vì vậy muốn tăng tác dụng kiện Tỳ của vị thuốc thì tẩm với mật.
+ Tẩm Nước Đậu Đen
Dùng 100g Đậu đen cho một lít nước, đun sôi một giờ, gạn lấy nước, ngâm với thuốc. Thường theo tỉ lệ 10 – 20% so với thuốc. Tẩm nước Đậu đen thường tăng ác dụng bổ Can Thận
+ Tẩm Nước Cam Thảo
Dùng 100g Cam thảo cho một lít nước, nấu sôi một giờ, gạn lấy nước, ngâm với thuốc, theo tỉ lệ 10 - 20 % so với thuốc.
Mục đích để giảm bớt độc tính của thuốc, làm cho thuốc êm dịu, đỡ chát.
+ Tẩm Nước Gạo
Dùng nước gạo đặc mới vo, ngâm với thuốc theo tỉ lệ 5 – 10%, để qua đêm, rồi sấy khô.
Mục đích để làm cho thuốc bớt tính ráo, nóng hoặc giảm bớt độc.
+ Tẩm Hoàng Thổ
Dùng 100g đất sét vàng (Hoàng thổ) cho vào 1 lít nước, đun sôi, khuấy đều. Gạn bỏ nước phía trên, chỉ lấy nước ở giữa, bỏ căn, tẩm với thuốc theo tỉ lệ 40 – 50%, để 2 –3 giờ rồi đem sao vàng.
Dùng Hoàng thổ sao để hút bớt tinh dầu có trong một số vị thuốc như Bạch truật, làm cho thuốc bớt tính ráo, nóng.
Mầu vàng là mầu của Tỳ, vì vậy, sao với Hoàng thổ để dẫn thuốc vào Tỳ, tăng tác dụng kiện Tỳ cho vị thuốc.
+ Tẩm Sữa
Ngày xưa thường dùng sữa người (Nhân nhũ) và phải là loại sữa của người mới sinh làn đầu (gọi là sữa con so), hiện nay có thể dùng sữa bò (nguyên chất chứ không phải loại sữa đặc có đường đã pha chế), dùng một nửa sữa, nửa nước để tẩm vào dược liệu, để khoảng 1-2 giờ rồi sao vàng. Mục đích tẩm Sữa để làm bớt tính khô ráo của vị thuốc. Ngày xưa dùng sữa người theo ý sữa là tinh huyết, tẩm vào thuốc để tăng tác dụng bổ huyết
Dùng lượng nước ít phun hoặc rắc cho thấm đều dược liệu rồi dùng  vải ướt hoặc bao tải đậy kín vài giờ hoặc vài ngày cho dược liệu mềm ra cho dễ thái và chế biến, hoặc giúp cho dược liệu lên men… Phương pháp này dùng cho các loại không thể ngâm lâu vì sợ mất hoạt chất như Ô dược, Tỳ giải, Thổ phục linh…
Có một số dược liệu trước khi phơi cần phải ủ cho dược liệu lên men, có mầu đẹp như Ngưu tất, Đương quy, Huyền sâm…
THỦY PHI
Là phương pháp tán, nghiền thuốc ở trong dạng nước với mục đích lọc lấy bột thật mịn, loại bỏ được một số tạp chất.
Cho bột thuốc vào vào cối lớn rồi cho nước vào ngập thuốc khoảng 3 – 5cm, khuấy đều, vớt bỏ những tạp chất nổi trên mặt nước đi, rồi vừa khuấy nhẹ vừa gạn thuốc sang bình đựng khác, còn cặn bỏ đi. Để  cho nước lắng xuống, gạn bỏ nước, lấy chất lắng đem phơi hoặc sấy khô. Thường dùng để lọc các chất Long cốt, Ngũ linh chi, Chu sa, Thần sa…
THỦY BÀO
Nấu nước sôi kỹ, để cho thuốc hơi hạ nhiệt xuống, còn khoảng 60 – 700, cho thuốc vào quấy nhẹ liên tục cho đến khi nước nguội. Làm như vậy 2 – 3 lần.
Mục đích của thủy bào là làm giảm bớt tính mạnh của vị thuốc hoặc làm cho vị thuốc mềm, dễ cắt hoặc dễ bóc vỏ.
Thí dụ: Thủy bào Bán hạ cho bớt chất độc; Thủy bào Hạnh nhân, Đào nhân để dễ bóc vỏ…
CHÍCH
Dùng mật tẩm dược liệu xong đem nướng (chích) cho đến khi thấy khô, thơm là được. Mục đích lấy vị ngọt của mật làm tăng tác dụng kiện Tỳ của vị thuốc. Thí dụ: Chích Hoàng kỳ, Chích Cam thảo…
ĐỐT
Thường dùng cồn đốt rồi đem vị thuốc hơ lên lửa cho cháy lông, hơi rượu bốc lên thấm vào thuốc  làm cho thuốc có mùi thơm hơn, bớt tanh và bảo quản được lâu. Nhung Hươu, Nai… thường dùng cách đốt này.
LÙI
Khi tro bếp đang nóng, đặt vị thuốc vào trong đó để láy sức nóng của tro làm cho thuốc chín. Khi áp dụng phương pháp này, thường dùng giấy bản ướt hoặc lấy Cám ướt bọc bên ngoài vị thuốc, đến khi giấy hoặc cám khô hẳn là được. Mục đích là tăng thêm tính ấm của vị thuốc đó. Thí dụ như Gừng, Cam thảo, Mộc hương…
NUNG
Dùng nhiệt độ cao để đốt trực tiếp vị thuốc đó cho chảy hoặc dễ tán thành bột. Thí dụ như Phèn chua (nung cho chảy ra, gọi là Phèn phi), Mẫu lệ, Thạch cao thường là nung cho đỏ để dễ tán thành bột.
SẮC
Cho thuốc vào nồi đất (siêu) hoặc dụng cụ để nấu… cho nước theo yêu cầu (thường là 4 chén nước), đun sôi nhẹ một thời gian cho thuốc thấm ra hết, chiết lấy nước để dùng như  thang thuốc sắc vẫn thường dùng.
NGÂM
Dùng một chất khác (nước, nước muối, Đồng tiện, rượu…)  ngâm với vị thuốc muốn dùng để làm cho thuốc mềm hơn, giảm trừ bớt độc tính của thuốc hoặc tăng tác dụng khác cho vị thuốc đó.
Thí dụ:
+ Bán hạ ngâm nước Gừng để giảm bớt độc tính của thuốc.
+ Đỗ trọng ngâm nước muối để tăng tác dụng bổ Thận.
+ Hậu phác ngâm nước Gừng để tăngtác dụng tiêu thực…
HÃM
Dùng nước đang sôi rót vào dược liệu rồi đậy kín lại cho thuốc thấm ra trong thời gian theo yêu cầu từng vị thuốc. Phương pháp này dùng cho các vị thuốc mềm như hoa, lá non, rễ nhỏ… Thường dùng dưới dạng chế biến thành chè để uống.
ĐỒ
Dùng hơi nóng của nước làm cho vị thuốc mềm ra, dễ thái. Thường dùng đối với các vị thuốc mà nếu ngâm sẽ làm mất hoạt chất của thuốc đi như Hoài sơn, Phục linh…
CHƯNG
Chế biến thuốc bằng cách nấu cách thủy, lấy hơi của dung dịch chế biến làm cho chất thuốc thay đổi. Thí dụ: Dùng rượu và Sa nhân chưng Sinh địa...
Cách thực hiện: Cho thuốc vào thùng, đặt vào một thùng khác to hơn (đã chứa ½ thùng nước), đậy nắp lại. Nấu sôi trong 24 giờ, khi nước cạn lại đổ thêm nước vào nấu. Ngày hôm sau, lấy vị thuốc ra, phơi hoặc sấy khô rồi lại tiếp tục chưng và phơi như trên đủ 9 lần, gọi là ‘Cửu chưng cửu sái’. Lúc đó, vị Sinh địa sẽ biến thành Thục địa.
XÔNG
Mục đích xông làm cho thuốc khô, chống mọt, để được lâu.
Có thể xông bằng Diêm sinh (Lưu huỳnh). Thí dụ: Bạch chỉ, Hoài sơn xông bằng Lưu huỳnh sẽ có mầu trắng tinh; Ngưu tất xông Lưu huỳnh và ủ kỹ sẽ có mầu hồng trong…
Những điểm cần lưu ý khi xông bằng Diêm sinh:
- Khi sấy bằng Diêm sinh cần tính toán lượng Diêm sinh cho phù hợp với lượng thuốc cần xông.
Có thể theo cách sau:
+ Những lần sấy đầu: cứ 100kg thuốc, dùng 0,800g – 1,2kg Diêm sinh, đốt làm hai lần.
+ Những lần xông định kỳ để Bảo quản: cứ 100kg thuốc  dùng 0,100 – 0,150kg Diêm sinh.
- Khi sấy bằng Diêm sinh, nên xếp thuốc thành từng lớp ngang, dọc khác nhau để cho hơi của Diêm sinh tỏa thấm đều tất cả thuốc.
- Hơi Diêm sinh bốc lên có độc, vì vậy chỗ sấy phải làm nơi thoáng. Lò sấy phải kín.
- Sau khi xông xong, phải mở cửa buồng sấy cho tỏa bớt hơi Diêm sinh đi rồi mới lấy dược liệu ra để tránh bị ngộ độc, nghẹt thở do hơi độc của Diêm sinh.
- Vị Cam thảo bắc không bao giờ được sấy bằng Diêm sinh.
Một vài lưu ý khi chế biến thuốc:
+ Để ý phòng cháy nhất là những khâu sao thuốc. Nếu sơ ý sẽ dễ cháy thuốc lẫn  vật dụng chung quanh.
+ Nếu xông thuốc, cần đeo khẩu trang tránh hơi độc của Diêm sinh hoặc Luu huỳnh bốc lên.
+ Một vài dược liệu có chất ăn da, khi rửa, nên để ở dưới vòi nước chảy. Thí dụ:
- Bạch chỉ nếu rửa vào chậu nước trong nhiều giờ chất Acid Angelic sẽ làm phồng và loét da tay.
- Bán hạ, Thiên niên kiện nếu rửa lâu sẽ gây dị ứng lở ngứa da.

Bài thuốc quý từ cỏ mực

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Theo Ðông y, cỏ mực vị chua ngọt, tính mát, có tác dụng bổ thận, mạnh xương, đen tóc, mát gan, cầm máu, giải độc...
43
Cỏ mực còn có tên gọi là cỏ nhọ nồi, hạn liên thảo. Tên khoa học là Eckipja prortraja, là loại cây nhỏ, mọc hoang ở nhiều nơi, dân gian thường dùng để làm thuốc cầm máu.

Theo Ðông y, cỏ mực vị chua ngọt, tính mát, có tác dụng bổ thận, mạnh xương, đen tóc, mát gan, cầm máu, giải độc, chống viêm và chống dị ứng. Cỏ mực được dùng để điều trị sốt xuất huyết, sốt phát ban, bệnh sởi, Rubella, trĩ, viêm lợi, loét lưỡi, viêm mũi dị ứng, viêm họng, rong huyết, viêm gan… Dùng tươi hoặc phơi khô dưới dạng thuốc sắc, có thể giã tươi lấy nước uống.
Một số cách dùng cỏ mực làm thuốc
Sốt xuất huyết: cỏ mực, cỏ sữa, tang diệp, bạch mao căn mỗi thứ một nắm nấu nước uống trong ngày.
Hoặc cỏ mực, râu ngô, cỏ mần trầu, mã đề thảo, rau má mỗi thứ một nắm nấu nước uống trong ngày.
Can khí uất kết: Biểu hiện đau tức hạ sườn phải, da vàng tiểu đỏ, đại tiện bí kết, tinh thần bứt rứt, ăn ít, giấc ngủ không yên. Dùng bài: cỏ mực 20g, hạ liên châu 16g, củ đợi 10g, rau má 20g, mã đề thảo 16g, lá đinh lăng 20g, cỏ mần trầu 20g. Sắc uống ngày 1 thang.
Viêm lợi, chảy máu chân răng: cỏ mực 20g, ngân hoa 10g, chi tử 10g, hoàng liên 10g, bạch mao căn 20g, tang diệp 20g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Loét lưỡi, viêm miệng:
cỏ mực 20g, rau má 20g, hoàng liên 10g, tang diệp 16g, ngân hoa 10g, liên kiều 10g, lá đinh lăng 16g, sài hồ 10g, cam thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: thanh tâm hỏa, chống viêm, tiêu độc.
Viêm gan virut: cỏ mực 24g, hạ liên châu 16g, nhân trần 12g, đan bì 10g, bạch thược 12g, lá đinh lăng 16g, chi tử 10g, chỉ xác 10g, đương quy 12g, bạch truật 12g, ngũ gia bì 12g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng từ 10 - 15 ngày liền. Công dụng: chống viêm, lợi gan mật, lợi tiểu, phục hồi chức năng gan.
Bệnh trĩ: cỏ mực (sao đen) 20g, phòng sâm 12g, hoàng kỳ 12g, đương quy 12g, bạch truật (sao hoàng thổ) 16g, thăng ma 12g, hoa hòe (sao đen) 12g, ngân hoa 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Cần uống 10 ngày liên tục. Công dụng: chống viêm, chỉ huyết, thăng đề.
Viêm mũi xuất tiết: cỏ mực 20g, thương nhĩ 10g, cây cứt lợn 20g, trần bì 10g, cát cánh 16g, phòng sâm 16g, kinh giới 12g, sinh khương 6g, cam thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bệnh zona: cỏ mực 20g, kinh giới 20g, thổ phục linh 20g, nam tục đoạn 16g, nam hoàng bá 16g, củ đinh lăng 12g, cam thảo đất 16g, hạ khô thảo 12g, ngân hoa 10g, kê huyết đằng 16g, huyền sâm 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng 3 - 4 ngày là bệnh lui.
Hội chứng viêm túi mật, tắc ống dẫn mật, đau tức vùng hạ sườn phải, túi mật căng, da vàng mắt vàng. Phép điều trị là chống viêm, thông đường dẫn mật, nếu có sỏi thì bài thạch, ống dẫn mật thông suốt thì các triệu chứng sẽ hết. Dùng một trong các bài:
Bài 1: cỏ mực 24g, nhân trần 16g, hạ liên châu 16g, chỉ xác 10g, đại hoàng 6g, cam thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 2: cỏ mực 24g, trần bì 10g, nhân trần 12g, kim tiền thảo 20g, trinh nữ 20g, rau ngổ 20g, kê nội kim 12g, khổ qua 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng liên tục 10 ngày. Công dụng: chống viêm, bài thạch, thông mật.

Rễ đinh lăng tăng lực, chống độc

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Đinh lăng là cây trồng khá phổ biến từ lâu ở nhiều nơi để làm cảnh. Chỉ có loài đinh lăng lá nhỏ (Tieghemopanax Fruticosus Vig) thuộc họ nhân sâm (Araliaceae) được dùng làm thuốc chữa bệnh.
12
Người ta thu hoạch rễ đinh lăng vào mùa thu- đông ở những cây đã trồng được 3 năm trở lên; lúc này rễ mềm, có nhiều hoạt chất. Rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân. Rễ nhỏ thì dùng cả, rễ to chỉ dùng vỏ rễ. Thái nhỏ rễ, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió đảm bảo mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng, để nguyên hoặc tẩm rượu gừng 5%, sao qua rồi tẩm 5% mật ong, sao thơm. Dược liệu có tên thuốc trong y học cổ truyền là nam dương lâm, có vị ngọt nhạt, hơi đắng, mùi thơm, tính mát bình không độc, được dùng dưới các dạng thuốc sau:
Cây và rễ đinh lăng.
- Thuốc sắc:
Rễ đinh lăng thái nhỏ, sao vàng 8-16g, sắc với 400ml nước còn 100ml, dùng cho phụ nữ sau khi sinh đẻ, uống thay chè để chống đau dạ con và làm tăng tiết sữa (Hải Thượng Lãn Ông).
- Thuốc ngâm rượu: Rễ đinh lăng khô 100g không sao tẩm, tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu 30-35 độ trong 7-10 ngày. Thỉnh thoảng lắc đều. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 5-10ml trước bữa ăn nửa giờ.
- Thuốc hãm: Rễ đinh lăng đã sao tẩm 5-10g, thái nhỏ, hãm với nước sôi như hãm trà, uống làm nhiều lần trong ngày.
- Thuốc bột và thuốc viên: Rễ đinh lăng sao tẩm 100g, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 0,5-1g. Hoặc trộn bột đinh lăng với mật ong vừa đủ làm thành viên, mỗi viên 0,25 - 5g. Ngày uống 2-4 viên, chia làm 2 lần.
Rễ đinh lăng phối hợp với nhiều vị thuốc khác còn chữa được những bệnh sau:
- Chữa sốt lâu ngày, nhức đầu, háo khát, đau tức ngực, nước tiểu vàng: rễ đinh lăng tươi 30g, lá hoặc vỏ chanh 10g, vỏ quýt 10g, rễ sài hồ 20g, lá tre 20g, cam thảo dây 30g, rau má 30g, chua me đất 20g. Tất cả thái nhỏ, đổ ngập nước, sắc đặc lấy 250ml, chia làm 3 lần uống trong ngày.
- Chữa thiếu máu: rễ đinh lăng, hà thủ ô, thục địa, hoàng tinh mỗi vị 100g; tam thất 20g, tán nhỏ, rây bột sắc uống ngày 100g.
- Chữa viêm gan mạn tính: rễ đinh lăng 12g, nhân trần 20g, ý dĩ 16g, chi tử, hoài sơn, biển đậu, rễ cỏ tranh, xa tiền tử, ngũ gia bì mỗi vị 12g; uất kim, ngưu tất mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
- Chữa liệt dương: rễ đinh lăng, hoài sơn, ý dĩ, hoàng tinh, hà thủ ô, kỷ tử, long nhãn, cám nếp, mỗi vị 12g; trâu cổ, cao ban long mỗi vị 8g, sa nhân 6g. Sắc suống trong ngày.
Nguồn báo mới

Cảnh giác với sự tương tác giữa tân dược và thảo dược

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Trong việc sử dụng thuốc phải hết sức cẩn trọng vì nhiều lẽ như sự tương tác bất lợi hay những thuốc gây hại cho các tạng phủ hoặc thuốc không bảo đảm đúng hàm lượng hoạt chất chính được đóng trong mỗi viên thuốc. Cũng như trong các chế phẩm thuốc về thảo dược dùng những nguyên liệu kém phẩm chất, sao tẩm, sấy bằng hóa chất có tồn lưu quá mức cho phép… Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến việc tương tác giữa tân dược và thảo dược.
Giữa thuốc tân dược và dược thảo có thể xảy ra sự tương tác với nhau khi sử dụng cùng lúc. Các hoạt chất để điều chế ra thuốc tân dược thường có nguồn gốc từ dược thảo như atropine được phân lập từ cà độc dược; hay strychnine được chiết ra từ hạt mã tiền… Về sau có một số thuốc tân dược khi phát hiện được cấu trúc phân tử thì được áp dụng công nghệ hóa học để tổng hợp thành như vitamin B12, insulin…
Trong sự tương tác này có tương tác có lợi khi cùng tăng cường làm khả năng trị liệu hay hỗ trợ trị liệu. Nhưng có tương tác gây nguy hiểm như thuốc này cản trở tác dụng của thuốc kia hoặc kìm hãm hay làm giảm tác dụng trị liệu của nhau. Đáng lo ngại hơn là khi có mặt của cả hai loại thuốc sẽ tạo thành một chất độc gây nguy hiểm cho người bệnh hoặc làm tăng độc tính vốn có ở thuốc...
 Có sự tương tác giữa tân dược và thảo dược nếu sử dụng cùng lúc.
Để xác định khả năng tương tác giữa thuốc tân dược và dược thảo hiện nay cần có sự hướng dẫn cụ thể của các thầy thuốc và các nhà dược học. Vì khi biết giữa thuốc tân dược và một dược thảo nào đó có xảy ra tương tác hay không phải dựa vào lĩnh vực dược gen học và dược động học để phát hiện tương tác thuốc liên quan đến chuyển hóa thuốc bằng phản ứng ôxy hóa. Khi dùng, thuốc sẽ bị gan chuyển hóa ở hai giai đoạn: giai đoạn liên hợp thuốc với chất sinh học có trong cơ thể (như acid glucuronic) và giai đoạn thuốc bị ôxy hóa bằng các enzym chuyển hóa thuốc như cytochrom P450. Thuốc này làm tăng cường hoặc ức chế enzym chuyển hoá thuốc để làm thuốc kia không còn tác dụng hoặc tăng độc tính gây tai biến. Các nghiên cứu phải dùng một hệ thống gồm nhiều chất được gọi là “cocktail” approach (gồm caffein, dapson, mephenytoin, chloroxazone...) để tác động vào hệ thống các enzym CYP450 như caffein tác động vào CYP450 loại 1A2, dapson tác động vào loại 2E1... và từ đó mới sàng lọc được các dược thảo có tác động đến hệ thống enzym chuyển hoá thuốc ở gan để dự đoán chúng có gây tương tác giữa thuốc này với thuốc kia hay không. Ngoài ra còn sàng lọc “genotype” để phát hiện loại người nào dễ bị tương tác thuốc khi dùng thuốc tân dược và dược thảo cùng lúc.
Chính vì vậy, người bệnh không nên tự ý sử dụng thuốc hoặc khi đang dùng loại thuốc nào cần thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết để tránh các tương tác bất lợi có thể xảy ra khi dùng tiếp một loại thuốc khác, kể cả khi đó là tân dược hay thảo dược.
BS. Hoàng Thanh Sơn

Thảo mộc trị bệnh viêm xoang

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Sử dụng thảo mộc trong điều trị viêm xoang cũng mang lại hiệu quả mà nhiều người chưa biết tới.

1. Vitamin C

Vitamin C có nhiều trong các loại rau như rau chân vịt, bông cải xanh và trà có tác dụng giúp thông mũi nên rất có ích với những người bị viêm xoang.

2. Tỏi

Trong tỏi có chứa allicin giúp chống lại các vi rút và vi khuẩn gây bệnh viêm nhiễm, ăn tỏi tươi hoặc cho vào trà hoặc canh đều rất tốt cho sức khoẻ.

3. Quả đậu ván

Quả đậu ván có tác dụng ngừa chứng viêm xoang và tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể.

4. Cam, chanh

Nước ép chanh hoặc cam giúp chống lại các mầm bệnh và giảm đáng kể lượng nước nhầy trong mũi. Dùng nước cam chanh 2 - 4 lần mỗi ngày để mang lại hiệu quả tối Theo ENA

Hoa thiên lý: Không chỉ bổ mà còn là thuốc

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

LTS: Trong thư gửi về chuyên trang Khoẻ & Vui, bạn đọc Phan Thị Cúc Tần, 53 tuổi, ngụ ở An Giang hỏi công dụng của hoa thiên lý. Bà Tần cho biết ở quê bà hoa thiên lý dùng nấu canh, xào với thịt ăn rất ngon. Mới đây ra Hà Nội du lịch, bà được giới thiệu hoa dạ lý hương cũng giống y như thiên lý. “Có phải dạ lý hương cũng là thiên lý? Có tài liệu nói trong thiên lý có chứa chất alkaloid, ăn nhiều có thể chết người, đúng không?” Chúng tôi giới thiệu ý kiến trao đổi của TS.DS Lê Thị Hồng Anh, thầy thuốc ưu tú, Trung ương hội Đông y Việt Nam.

Lý này khác lý kia
Thiên lý là loại cây được trồng và ra hoa vào mùa hè, không những toả hương thơm làm mát dịu cả không gian quanh nhà, mà còn là loại thực phẩm bổ dưỡng.
Thiên lý có tên khoa học Telosma cordata (Burm. F) Merr, là dây leo quấn, thường trồng leo lên giàn, cành non có lông mịn, mủ trắng, lá có phiến hình tim, hoa ăn được, thuộc họ thiên lý (Asclepiadaceae). Trong khi đó cây dạ lý hương, có tên khoa học Cestrum nocturnum L., là cây bụi, thân nhỏ (tiểu mộc), hoá gỗ, thuộc họ cà (Solanaceae), hoa thơm nồng lúc chiều tối, không ăn được. Sự nhầm lẫn trong tên gọi hai loại hoa này có lẽ do tên địa phương, vì miền Bắc có nơi gọi thiên lý là dạ lý hương, dạ lài hương...
Độc ít bổ nhiều
Theo bảng “Thành phần hoá học thức ăn Việt Nam” của bộ Y tế, trong 100g hoa thiên lý chứa 2,9g chất đạm; 2,8g bột đường; 3g chất xơ; 52mg canxi; 53mg phốtpho; 1,2mg sắt; 1,17mg caroten (tiền sinh tố A); 0,19mg vitamin B1; 0,13mg B; 1,1mg PP và 45mg vitamin C. Ngoài ra, một số nghiên cứu còn ghi nhận hoa thiên lý chứa rất nhiều vitamin E, đặc biệt là kẽm và một số khoáng vi lượng khác, là chất thiết yếu cho hoạt động của cơ quan sinh dục của cây cũng như của con người. Riêng về chất alkaloid, chỉ ghi nhận có một ít trong thân dây, lá già (ngắt cuống lá sẽ thấy có một chất keo trong, lấy ngón tay bôi vào, thấy chất nhựa hơi dính tay), chưa đủ để gây ngộ độc trên động vật thí nghiệm, và hầu như hiện diện không đáng kể trong hoa. Cũng cần nói thêm, khi nhắc đến alkaloid, chúng ta thường nghĩ ngay đến hợp chất gây độc. Nhưng không hoàn toàn như thế, alkaloid là những hợp chất hữu cơ thường gặp trong nhiều loài thực vật (khoai tây, tắc, cà chua, vông nem, dừa cạn…) Alkaloid có hoạt tính sinh lý rất cao đối với cơ thể con người và động vật, nhất là đối với hệ thần kinh. Với một lượng nhỏ alkaloid có thể là chất độc gây chết người, nhưng có khi với một liều lượng hợp lý nó là dược phẩm trị bệnh đặc hiệu (như dùng bào chế morphine có tác dụng giảm đau rất tốt hay thuốc codein giảm ho).
Thương chồng nấu canh hoa lý
Vì giàu dưỡng chất, hoa thiên lý ngoài tác dụng làm rau ăn, còn được dùng chữa một số bệnh cho kết quả khá tốt, có tác dụng giải nhiệt, bổ dưỡng, giúp trẻ chóng lớn, giúp người già giảm chứng phì đại tuyến tiền liệt, tăng cường sức đề kháng cho người sử dụng. Đặc biệt, sự có mặt của chất kẽm còn có thể đẩy chì ra khỏi tinh dịch, hỗ trợ tích cực trong cải thiện tình trạng vô sinh ở nam giới bị nhiễm chì. Ông bà xưa có câu: “Thương chồng nấu cháo le le/ Nấu canh hoa lý, nấu chè hạt sen”; cho thấy kinh nghiệm dân gian dùng hoa thiên lý làm thuốc trợ dương cho nam giới là có cơ sở khoa học.
Trong đông y, hoa thiên lý ghi nhận có vị ngọt, tính bình, giải nhiệt, chống rôm sảy, là vị thuốc an thần, giúp ngủ ngon giấc, khắc phục tình trạng lao lực, tư bổ tâm, thận, bớt đi tiểu đêm, đỡ mệt mỏi đau lưng, chống viêm, chóng lên da non, được sử dụng trị liệu trong các chứng như viêm kết mạc cấp và mạn, viêm giác mạc và mờ đục màng mắt, viêm kết mạc do sởi, trị giun kim… Liều dùng hoa thiên lý trong các bài thuốc phổ biến từ 30g – 50g. Khi chế biến các món ăn với hoa thiên lý, lưu ý không xào nấu hoa quá chín, sẽ làm giảm đi các dưỡng chất và nát cánh hoa, mất ngon.

Dược thảo: Dâu chế dục

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Bản tài liệu này cung cấp các dữ kiện căn bản về loại thảo mộc chasteberry như: Tên gọi, cách sử dụng, phản ứng phụ, và những nguồn để tìm thêm dữ kiện.
Chasteberry là trái của cây chaste, một loại cây mọc thấp từng bụi, đặc sản của vùng Trung Á và vùng Địa Trung Hải. Loại dâu này được dùng để giảm dục tính. Sách vở ghi chép rằng các tu sĩ trong thời Trung Cổ đã sử dụng để chế dục.
•Tên gọi: chasteberry, chaste-tree berry, vitex, hạt tiêu của tu sĩ (monk’s pepper)
•Tên La Tinh: Vitex agnus-castus
Công dụng
• Chasteberry đã được sử dụng qua nhiều ngàn năm, phần lớn là bởi phụ nữ, để điều hòa kinh nguyệt và để gia tăng sự hoạt động của các tuyến sữa.
• Ngày nay, chasteberry vẫn được dùng để chữa trị các bệnh về kinh nguyệt, như hội chứng của những ngày trước kinh nguyệt (premenstrual syndrome), cũng như các triệu chứng (symptoms) của thời kỳ mãn kinh, vài trường hợp hiếm muộn, và mụn.
Cách dùng
Dâu chín phơi khô được dùng để bào chế chất chiết xuất dưới dạng chất lỏng, hoặc thuốc viên.
Kết quả của các nghiên cứu khoa học
• Một vài cuộc khảo sát giới hạn, kết luận rằng chasteberry có thể giảm hội chứng của những ngày trước kinh nguyệt (premenstrual syndrome). Tuy nhiên, chưa có cuộc khảo cứu quy mô nào để đưa ra một kết luận chắc chắn cả.
• Vài cuộc khảo cứu giới hạn khác cho rằng chasteberry giảm sự đau nhức vú, và chữa hiếm muộn nhưng cũng chưa có cuộc khảo cứu quy mô nào đi đến kết luận kể trên.
Theo - tvvn.org

Chữa đau lưng với rễ cây "xấu hổ"

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Rễ đinh lăng được thu hái  ở những cây đã có từ 4 - 5 tuổi trở lên. Khi đào lấy rễ, rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân, rễ nhỏ thì dùng cả, nếu rễ to thì dùng phần vỏ rễ. Thái nhỏ, phơi khô chỗ râm mát, thoáng gió để giữ mùi thơm.
Lá đinh lăng chống bệnh co giật cho trẻ em, lấy lá non và lá già phơi khô đem lót vào gối hoặc trải giường cho trẻ nằm. Thân cành đinh lăng sắc uống chữa được bệnh đau lưng, mỏi gối, tê thấp, dùng phối hợp với rễ cây xấu hổ, cúc tần, cam thảo dây.
Chú ý: Không được dùng rễ đinh lăng với liều cao, sẽ bị say, có hiện tượng mệt mỏi đối với cơ thể.
Để tham khảo và áp dụng, dưới đây xin giới thiệu một số phương thuốc trị liệu các bệnh chứng trong đó có đinh lăng.
* Chữa vết thương: Lá đinh lăng giã nát đắp nơi bị thương.
* Phòng co giật ở trẻ: Lấy lá đinh lăng non, lá già cùng phơi khô rồi lót vào gối hay trải xuống giường cho trẻ nằm.
* Bồi bổ và khai vị (nhờ công hiệu của rễ đinh lăng tăng cường sinh lực, sức dẻo dai và khả năng chịu đựng của cơ thể): Chọn dùng một trong các cách như: Lấy rễ đinh lăng khô thái lát 150g, không sao tẩm, tán bột, ngâm trong 1.000ml rượu gạo 35 - 40 độ, trong 7 - 10 ngày liền (hằng ngày lắc đều 1 lần) ngày uống 2 lần vào trước bữa ăn 30 phút, mỗi lần uống 5 - 10ml.
* Chữa đau lưng mỏi gối (chữa cả tê thấp): Dùng thân cành đinh lăng 20 - 30g, sắc lấy nước chia 3 lần uống trong ngày. Có thể phối hợp cả rễ cây xấu hổ, cúc tần và cam thảo dây.
* Thông tia sữa tắc: Rễ đinh lăng 30 - 40g, sắc với 500ml nước còn 250ml chia 2 - 3 lần uống nóng trong ngày, uống liền 2 - 3 ngày.

Theo - Bee

Đinh lăng chữa tắt sữa ở phụ nữ sau khi sinh

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Không chỉ là cây cảnh thông dụng, cây rau ăn được ưa thích trong dùng gỏi cá, nem cuốn, đinh lăng còn là một vị thuốc nam có tính năng chống dị ứng, giải độc thức ăn, chống mệt mỏi và làm tăng sức dẻo dai của cơ thể.
Đinh lăng thuộc loại cây nhỏ, lá có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ, rễ đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết. Dưới đây là một số bài thuốc có thể tự làm để chữa bệnh từ đinh lăng.
cây đinh lăng
Bồi bổ cho sản phụ: Phụ  nữ sau khi sinh, người ốm dậy nên dùng lá đinh lăng nấu canh với thịt, cá để bồi bổ có  tác dụng gần giống như nhân sâm. Thực hiện bài thuốc này bạn dùng khoảng 200g lá đinh lăng rửa sạch, khi canh thịt nấu sôi cho đinh lăng đun vừa chín tới, ăn nóng, giúp cơ thể sảng khoái, đẩy các độc tố ra ngoài.
Bồi bổ cơ thể, ngừa dị ứng: Lá đinh lăng tươi từ 150 - 200g, nấu sôi khoảng 200ml nước (có thể dùng nước sôi có sẵn ở "phích"). Cho tất cả  lá đinh lăng vào nồi, đậy nắp lại, sau vài phút, mở nắp và đảo qua đảo lại vài lần. Sau 5 - 7 phút chắt ra để uống nước đầu tiên, đổ tiếp thêm khoảng 200ml nước vào để nấu sôi lại nước thứ hai. Cách dùng lá tươi thuận tiện vì không phải dự trữ, không tốn thời gian nấu lâu, lượng nước ít, người bệnh dễ uống nhưng vẫn đảm bảo được lượng hoạt chất cần thiết.
Chữa tắc tia sữa: Phụ nữ  đang nuôi con đôi khi tự nhiên mất sữa có thể  lấy rễ đinh lăng 40g, gừng tươi 3 lát, đổ 500ml nước sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.

Lương y Phó Hữu Đức
Theo Bee

Dược tính của rễ và lá cây đinh lăng

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog


Cây đinh lăng vừa dùng làm cảnh, vừa là thứ rau ăn kèm với một số món ăn như: nem cuốn, gỏi, thịt chó... Ngoài ra, cây còn được dùng để làm thuốc. Rễ đinh lăng được thu hái ở những cây đã có từ 4 - 5 tuổi trở lên. Khi đào lấy rễ, rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân, rễ nhỏ thì dùng cả, nếu rễ to thì dùng phần vỏ rễ. Thái nhỏ, phơi khô chỗ râm mát, thoáng gió để giữ mùi thơm.
Lá đinh lăng chống bệnh co giật cho trẻ em, lấy lá non và lá già phơi khô đem lót vào gối hoặc trải giường cho trẻ nằm. Thân cành đinh lăng sắc uống chữa được bệnh đau lưng, mỏi gối, tê thấp, dùng phối hợp với rễ cây xấu hổ, cúc tần, cam thảo dây.
Chú ý: Không được dùng rễ đinh lăng với liều cao, sẽ bị say, có hiện tượng mệt mỏi đối với cơ thể.
Để tham khảo và áp dụng, dưới đây xin giới thiệu một số phương thuốc trị liệu các bệnh chứng trong đó có đinh lăng.
Đinh lăng bổ ngũ tạng:
* Chữa vết thương: Lá đinh lăng giã nát đắp nơi bị thương.
* Phòng co giật ở trẻ: Lấy lá đinh lăng non, lá già cùng phơi khô rồi lót vào gối hay trải xuống giường cho trẻ nằm.
* Bồi bổ và khai vị (nhờ công hiệu của rễ đinh lăng tăng cường sinh lực, sức dẻo dai và khả năng chịu đựng của cơ thể): Chọn dùng một trong các cách như: Lấy rễ đinh lăng khô thái lát 150g, không sao tẩm, tán bột, ngâm trong 1.000ml rượu gạo 35 - 40 độ, trong 7 - 10 ngày liền (hằng ngày lắc đều 1 lần) ngày uống 2 lần vào trước bữa ăn 30 phút, mỗi lần uống 5 - 10ml.
* Chữa đau lưng mỏi gối (chữa cả tê thấp): Dùng thân cành đinh lăng 20 - 30g, sắc lấy nước chia 3 lần uống trong ngày. Có thể phối hợp cả rễ cây xấu hổ, cúc tần và cam thảo dây.
* Thông tia sữa tắc: Rễ đinh lăng 30 - 40g, sắc với 500ml nước còn 250ml chia 2 - 3 lần uống nóng trong ngày, uống liền 2 - 3 ngày.

rượu bổ cho mùa thu

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Loại rượu ngâm hạt sen giúp cải thiện chứng di tinh xuất tinh sớm, mất ngủ. Rượu vừng đen chữa đau đầu, hoa mắt... Các loại dược tửu này dùng rất hợp trong tiết thu.

Vào mùa thu, dương khí dần lui bớt, âm khí từ từ tăng trưởng, thời tiết chuyển dần từ nóng sang lạnh, mưa ít gió nhiều, độ ẩm không khí giảm, dễ gây hao tổn chất dịch trong cơ thể. Do đó, nhiều người nghĩ lúc này không nên uống rượu. Thực ra, theo kinh nghiệm dưỡng sinh của người xưa, mùa nào cũng có thể uống rượu, có điều phải chế biến và chọn loại rượu thuốc phù hợp để có lợi cho sức khỏe.

Việc dùng rượu trong mùa thu phải tuân thủ nguyên tắc dưỡng âm, bổ sung đầy đủ chất dịch cho cơ thể. Sau đây là một số loại rượu sinh mùa thu:

Rượu vừng đen

Dùng cho những người bị can thận phế âm hư (hay đau đầu, hoa mắt chóng mặt, lưng đau gối mỏi, râu tóc bạc sớm, ho khan ít đờm, đại tiện táo) nhờ tác dụng bổ gan thận, phổi, lợi tiêu hóa, nâng cao sức khỏe và chống lão hóa. Trường hợp đại tiện lỏng loãng không nên dùng.

Vừng đen 50 g, rượu trắng 500 ml. Vừng đen đãi sạch, để khô rồi đem ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng thì dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml.

Rượu hạt sen

Dùng cho những người bị mất ngủ, hay hồi hộp đánh trống ngực, di tinh, đái dầm, xuất tinh sớm, phụ nữ bị khí hư, đi lỏng do tỳ vị hư yếu. Trường hợp đại tiện táo kết không nên dùng.

Hạt sen 50 g, rượu trắng 500 ml. Hạt sen bỏ vỏ và tâm, đập vụn rồi đem ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng thì dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml.

Rượu dâu

Dùng cho những người môi khô miệng khát, có cảm giác hâm hấp sốt về chiều, lòng bàn tay bàn chân nóng, ho khan, hay ra mồ hôi trộm, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ.

Quả dâu chín 200 g, rượu trắng 500 ml. Hai thứ ngâm trong bình kín, sau nửa tháng có thể dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml.

Rượu hà thủ ô

Giúp bổ thận, ích tinh, dưỡng huyết, chống lão hóa. Dùng cho người đầu choáng tai ù, mất ngủ hay quên, râu tóc bạc sớm, di tinh, liệt dương.

Hà thủ ô 150 g, rượu trắng 500 ml. Hà thủ ô rửa sạch, thái vụn, ngâm với rượu trong bình kín, sau 15-20 ngày có thể dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml.

Rượu nhân sâm kỷ tử

Giúp đại bổ nguyên khí, dưỡng gan và làm sáng mắt. Dùng thích hợp cho những người khó thở, ngại nói, dễ đổ mồ hôi, chán ăn, chậm tiêu, da nhợt, tay chân teo nhẽo, sa dạ dày, sa trực tràng; hoặc lưng đau gối mỏi, tiểu tiện nhiều lần về đêm, khả năng tình dục sút kém; hoặc hay hồi hộp đánh trống ngực, mất ngủ, môi nhợt.

Nhân sâm 10 g, kỷ tử 20 g, rượu trắng 500 ml. Nhân sâm thái phiến, kỷ tử rửa sạch cho vào bình kín ngâm với rượu, sau nửa tháng có thể dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml.

Rượu cúc hoa

Thích hợp cho những người hay bị cảm mạo phát sốt, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt và có cảm giác bốc nóng lên đầu, thị lực giảm sút.

Cúc hoa 50 g, rượu trắng 500 ml. Cúc hoa rửa sạch, để ráo, cho vào bình ngâm với rượu, sau 10 ngày có thể dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml.

Rượu tây dương sâm

Dùng thích hợp cho những người khí âm lưỡng hư biểu biện bằng các triệu chứng mệt mỏi, khó thở, miệng khô, họng khô, ho khan, hay có cảm giác hơi sốt về chiều, đổ mồ hôi trộm. Với trường hợp đau bụng và đi lỏng do lạnh không nên dùng.

Tây dương sâm 50g, rượu trắng 500ml. Tây dương sâm thái phiến, ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng có thể dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml.

Rượu hoàng tinh

Dùng cho những người chán ăn, mệt mỏi, ho khan lâu ngày, lưng đau gối mỏi, đầu choáng mắt hoa do tác dụng lợi tiêu hóa, bổ thận và phổi. Không nên dùng cho trường hợp đại tiện lỏng loãng, ho khạc đờm nhiều.

Hoàng tinh 20 g, rượu trắng 500 ml. Hoàng tinh rửa sạch, thái phiến, cho vào túi vải buộc kín rồi ngâm trong rượu, sau nửa tháng có thể dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Đinh lăng và dược tính trị bệnh

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Đinh lăng hay còn gọi là cây Gỏi cá, có tên khoa học: Polyscias fruticosa L. Harms, họ Ngũ gia bì (ARLIACEAE)
Đinh lăng là cây gỗ nhỏ, cao 0,8 - 1,5m, không lông, không gai. Lá kép 3 lần lông chim, dài 20 - 40cm. Lá chét có cuống nhỏ mảnh khảnh dài 3 - 15mm, dạng màng, khía răng không đều, phần nhiều khía hay chia thuỳ, có mũi nhọn, dài 3 - 10cm, rộng 0,6 - 4cm. Hoa nhỏ thành cờ, tán ngắn dài 7 - 18cm. Quả dẹt màu trắng bạc, dài và rộng khoảng 3 - 4mm, dày 1mm, đội các vòi còn lại. Cây ra hoa tháng 4 - 7.

Trong rễ có glucozit, alcaloit, saponin triterpen, flavonoit tanin và 13 loại axit amin trong đó có lyzin, xystein, methionin là những axit amin không thể thay thế được. Vitamin B1 trong thân và lá cũng có nhưng ít hơn.

Qua nghiên cứu và thử nghiệm, Viện Y học quân sự đã tìm được  từ cây Đinh lăng những tính chất của Nhân sâm: Rễ Đinh lăng có tác dụng làm tăng cường sức dẻo dai và sức đề kháng của cơ thể, chống hiện tượng mệt mỏi, giúp ăn ngủ ngon, tăng khả năng lao động, lên cân và chống độc.

Rễ Đinh lăng được thu hái vào mùa thu, đông ở những cây đã trồng từ 3 năm trở lên, rễ mềm có nhiều hoạt chất. Rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân, rễ nhỏ thì dùng cả, rễ to chỉ dùng vỏ. Thái nhỏ, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió để bảo đảm mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng để nguyên hoặc tẩm rượu Gừng 5%, sao qua rồi tẩm 5% Mật ong, sao thơm. Dược liệu có vị ngọt, đắng, mùi thơm, tính mát, không độc. Được dùng dưới những dạng sau:

Thuốc ngâm rượu: Rễ Đinh lăng khô, không sao tẩm 100g, tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu 30 – 35 độ trong 7 - 10 ngày. Thỉnh thoảng lắc đều. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 6 - 10ml, uống trước bữa ăn nửa giờ.

Thuốc bột và thuốc viên: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm 100g, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 0,5 - 1g hoặc trộn bột với Mật ong vừa đủ, làm thành viên, mỗi viên 0,25 - 0,5g. Ngày uống 2 - 4 viên, chia làm 2 lần.

Thuốc hãm: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm 5 - 10g, hãm với nước sôi như hãm chè, uống làm nhiều lần trong ngày.

Viện Y học quân sự đã dùng viên bột rễ Đinh lăng cho bộ đội tập luyện hành quân. Kết quả cho thấy khả năng chịu đựng và sức dẻo dai của họ được tăng lên rõ rệt. Các nhà khoa học Việt Nam và Nga cũng nhận thấy rễ Đinh lăng có tác dụng tốt đối với các nhà du hành vũ trụ khi luyện tập.

Ngoài ra, theo Y học cổ truyền, Hải Thượng Lãn Ông đã dùng rễ Đinh lăng sao vàng, sắc cho phụ nữ uống sau khi đẻ để chống bệnh đau dạ con và làm tăng tiết sữa.

Dùng rễ Đinh lăng liều cao sẽ thấy hiện tượng say, mệt mỏi. Lá Đinh lăng được dùng theo kinh nghiệm dân gian để tránh bệnh kinh giật cho trẻ em. Lấy cả lá non và lá già phi khô đem lót gối hoặc trải giường cho trẻ nằm. Thân và cành Đinh lăng sắc uống với liều 20 - 30g, chữa đau lưng, mỏi gối tê thấp. Dùng riêng hoặc phối hợp với rễ cây Xấu hổ, Cúc tần, Bưởi bung, Cam thảo dây.

Đinh lăng còn được dùng chữa ban sởi, ho ra máu, kiết lỵ. Phối hợp với Sữa ong chúa là thuốc bổ rất tốt.
Chú ý: Tránh nhầm với cây Đinh lăng lá tròn (Polyscias balfouriana Bailey, Đinh lăng lá to hay Đinh lăng lá ráng (Polysciasfilicifolia (Merr) Baill, Đinh lăng trổ hay Đinh lăng viền bạc (Polyscias guilfoylei Baill), Đinh lăng đĩa (Nothopanax scutellarius (Burm.f.) Merr., Đinh lăng răng (Polyscias serrata Bail) và loài Polyscias sambucifolia (Sieber) Harms. Những loài này không dùng làm thuốc.

Thuốc nào kị rượu

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Trong Đông y, rượu được dùng làm chất dẫn cho một số loại thuốc khi sử dụng, nhất là các loại cao như cao trăn, cao khỉ, cao ngựa, cao mèo… nhưng lượng rượu dùng trong các trường hợp này cũng không phải là nhiều.

Còn với các loại thuốc Tây y, nói chung khi dùng thuốc không nên uống rượu, vì rượu (và các thức uống có cồn) sẽ tương tác với thuốc làm tăng hoặc giảm hiệu lực, có khi thuốc chuyển hóa thành chất độc hại.

Đặc biệt cần chú ý một số loại thuốc sau:

Thuốc chống động kinh, thuốc chống đông máu: Rượu sẽ làm giảm từ 1/3 - 1/2 hàm lượng thuốc hấp thu vào huyết tương nên sẽ làm giảm hiệu lực của thuốc.

Paracetamol và các thuốc chống lao: Khi sử dụng cùng với rượu làm tăng nguy cơ gây độc cho gan.

Thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc chống trầm cảm, thuốc giảm đau có opi, thuốc chống loạn thần, thuốc chống động kinh, thuốc kháng histamin H1: Rượu sẽ cộng hợp tác dụng trên thần kinh trung ương, làm tăng tác dụng ức chế thần kinh trung ương của các thuốc này.


Không uống rượu khi uống thuốc.

Thuốc hạ huyết áp (như thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn alpha, thuốc chẹn bêta...): Sử dụng thuốc đồng thời uống rượu sẽ gây hạ huyết áp tư thế đứng, gây choáng váng và ngất xỉu. Ngoài ra, người bị tăng huyết áp nếu uống rượu nhiều và đều đặn sẽ tăng nguy cơ đột qụy.

Aspirin và salicylat: Tác dụng phối hợp giữa rượu và các loại thuốc này làm tăng tác dụng phụ của thuốc trên niêm mạc ống tiêu hóa, đặc biệt làm tăng nguy cơ chảy máu tiêu hóa.

Thuốc chống đái tháo đường: Rượu làm tăng tác dụng hạ đường huyết, có thể dẫn tới hôn mê do hạ đường huyết, nhưng với tolbutamia rượu lại làm giảm tác dụng của thuốc. Với metformin, rượu còn có nguy cơ làm tăng acid lactic, đặc biệt khi đói hoặc thiếu dinh dưỡng.

Disulfiram và các chất giống disulfiram: Chất này ức chế sự ôxy hóa rượu để hình thành acetaldehyd. Khi dùng chất này nếu uống rượu thì sau 5 – 10 phút sẽ thấy mặt đỏ bừng, nhức đầu, hạ huyết áp, đánh trống ngực, buồn nôn, rất khó chịu, gây cảm giác sợ rượu (hội chứng cai rượu).

Metronidazol: Cũng tác dụng như disulfiram, do đó, bệnh nhân dùng metronidazol không được uống rượu kể cả 48 giờ sau khi ngưng thuốc.

ThS. Nguyễn Bạch Đằng
theo skds