PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ DƯỢC LIỆU
Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog
Để
một vị thuốc dễ dàng được người tiêu dùng chấp nhận, phải chú ý rất
nhiều từ khâu sơ chế đến bào chế. Tây y có những quy trình rất rõ về
việc bào chế từng vị thuốc. Đông y từ trước đến nay, đa số bào chế theo
truyền khẩu, theo kinh nghiệm, ít có đơn vị, cơ quan chính thức làm hẳn
công việc này. Ngoài ra việc bào chế thuốc Đông y còn yêu cầu chế biến
theo diễn biến bệnh nên có nhiều vị thuốc không thể làm sẵn được.
Quy
chế và phương pháp bào chế theo người xưa được mô tả rõ nhất trong
quyển ‘Bào Chích Luận’ của Lôi Hiệu, viết khoảng năm 420 – 479. Sau này
dựa vào tên tác giả đổi thành ‘Lôi Công Bào Chích’. Quyển sách này hiện
nay vẫn còn được coi là quy phạm cho những người bào chế thuốc.
Một vị thuốc khi đến tay người tiêu dùng thường trải qua 3 giai đoạn:
1- Cách trồng.
2- Thu hái, Sơ chế.
3- Bào chế.
Mỗi
khâu đều có kỹ thuật riêng, vì vậy, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu
các giai đoạn này để việc chế biến thuốc đạt hiệu quả hơn.
1- CÁCH TRỒNG
Mỗi cây thuốc, vị thuốc có cách trồng hoặc nuôi dưỡng riêng.
-
Thời điểm trồng có thể sẽ mang thêm hiệu quả. Thí dụ có những cây trồng
vào đầu màu xuân, có cây lai trồng vào dịp hè thu… Nếu trồng sai thời
vụ, kết quả thu hoạch sẽ kém hơn.
-
Cách chăm sóc cho cây sinh trưởng cũng sẽ giúp thu hoạch đạt năng suất
hơn. Thí dụ, cũng cùng một loại cây, nếu biết phân bón đúng thời điểm,
lượng thu hoạch cho 4-5 tấn/hecta so với 1 tấn/ hecta nếu không chăm
sóc, phân bót.
2- THU HÁI
. Xác định đúng thời kỳ thu hái.
+ Đối với cây lấy củ: thu hái lúc cây bắt đầu vàng úa, lá gốc đã già, lúc này hoạt chất tập trung nhiều ở củ.
+ Đối với cây lấy lá: thường thu hái lúc cây ra nụ.
+ Đối với cây lấy tinh dầu: thường thu hoạch vào thời kỳ hoa nở rộ, là lúc hàm lượng tinh dầu thường cao nhất.
. Kỹ thuật thu hái:
+ Nên chọn ngày nắng ráo để dễ dàng trong việc phơi, sấy chế biến.
+ Thu hoạch củ khi đào, tránh làm sây sát hoặc đứt rễ.
+
Thu hoạch lá: cắt lá theo đúng yêu cầu (loại lá già hoặc bánh tẻ…),
trải mỏng, không nên xếp đống hoặc vất bừa bài vì lá sẽ bị hấp nóng dễ
bị thối ủng.
+ Thu hoạch cây để lấy tinh dầu: Cắt lá sau khi tan hết sương cho đến khoảng 15-16 giờ sẽ đỡ hao tinh dầu.
+
Thu hái vỏ cây thì phải dùng dây thắt ngang cây hoặc cành làm chuẩn rồi
dùng dao rạch thành từng miếng cho đều, dễ phơi sấy và uốn thành từng
thanh. Nếu bóc tùy tiện sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây và giảm
giá trị của vị thuốc.
3- CHẾ BIẾN
Có 2 giai đoạn: Sơ Chế và Bào Chế.
A- SƠ CHẾ
Để
bảo quản dược liệu sau khi thu hoạch, cần sơ chế ngay. Mỗi loại dược
liệu có cách sơ chế riêng (xem chi tiết trong từng vị thuốc).
+ Các loại lá:
. Nên phơi trong râm cho héo dần, không nên phơi nắng to sẽ làm cho thuốc khô giòn, vụn nát.
.
Trước khi phơi hoặc sấy, thường người ta dùng phép ‘diệt men phân hủy’
để giữ nguyên hoạt chất có trong lá. Thí dụ: vị thuốc Cam thảo dây, nếu
thu hái xong mà phơi ngay thì lá biến thành mầu nâu xám, vị thuốc không
ngọt, hoạt chất giảm đi, nhưng nếu chế biến bằng cách sao lá tươi trên
chảo nóng bỏng, sau đó giảm dần lửa cho đến khi khô hẳn thì lá Cam thảo
dây vẫn giữ nguyên mầu xanh lục và vị ngọt đậm vì chất Glyxyrizin không
bị phá hủy đi.
+ Các loại thân cây có nhựa khô như Thạch hộc, nên luộc sơ qua rồi phơi nắng to cho khô
+
Các loại củ, phải sấy từ từ, lúc đầu nhiệt độ khoảng 40 – 500C, sau
tăng dần lên 70 – 800C, để tránh tình trạng bên ngoài vỏ đã khô mà trong
ruột còn ướt.
Các giai đoạn chế biến dược liệu:
THÁI, BÀO
Dùng dao cắt dược liệu thành những miếng mỏng.
Đa số các nhà thuốc đều mua loại dao chế sẵn, tùy theo yêu cầu dược liệu, gọi là Dao Cầu, Dao Bào hoặc Dao Thái.
+ Dao Cầu: Bản dao to hơn, thường dùng thái các dược liệu to và cứng.
+
Dao Bào: có hình dáng giống chiếc bào gỗ của thợ mộc, thường dùng để
cắt những dược liệu đã được ủ mềm cho đều và không bị nát vụn như Đương
quy, Thương truật, Xuyên khung…
+ Dao Thái: Loại dao sắc để cắt dược liệu nhỏ, mềm như lá: Bạc hà, Kinh giới…
TÁN
Làm cho dược liệu trở thành dạng bột nhuyễn, mịn.
Có thể dùng hai cách sau:
+ Tán bằng Chầy và Cối:
-
Cối có nhiều loại: bằng gỗ, bằng đá, bằng đồng, bằng sắt… Hiện nay có
nhiều nơi chế bằng nhựa cứng. Nên lựa loại có lòng sâu để chứa được
nhiều thuốc và đỡ bắn thuốc ra ngoài.
-
Chầy có thể bằng gỗ hoặc bằng nhựa. Nhiều nơi bọc đầu chầy bằng một
miếng đồng để tăng sức giã nát thuốc. Ở thân của chầy, nên làm một miếng
che bằng da để che thuốc khỏi bắn ra ngoài mỗi khi chầy nện xuống cối
thuốc.
Cho
dược liệu vừa đủ vào cối, nhiều quá thì thuốc khó giã mà dễ bị bắn ra
ngoài; Nếu thuốc ít quá, chầy có thể đập mạnh vào lòng cối, dễ gây vỡ
cối…
Nếu
dược liệu thuộc loại mềm, nếu giã sẽ làm cho thuốc dính lại thành tảng.
Trường hợp này nên dùng cách nghiền: Không nhấc cao chầy ra khỏi cối mà
đưa đầu chầy xoay thành vòng tròn, ép mạnh dược liệu vào thành cối cho
nát.
+
Tán bằng Thuyền Tán: Nếu dược liệu cứng, khó cắt, cần nghiền nát với số
lượng lớn thì nên dùng Thuyền tán. Thuyền tán đa số làm bằng gang,
giống hình một chiếc thuyền. Khi cần tán, cho dược liệu vào lòng thuyền
(sau khi đã cắt nhỏ hoặc sao khô), dùng một bánh xe cũng bằng gang có
cạnh sắc lăn qua, lăn lại cho đến khi dược liệu bị phân chia nhỏ ra.
Hiện nay, có thể dùng máy tán vừa nhanh vừa đỡ mất sức mà dược liệu đạt độ mịn hơn.
RÂY
Sau khi đã tán dược liệu thành bột, tùy yêu cầu chế biến mà dùng các loại rây khác nhau để tạo nên bột có độ mịn khác nhau.
+ Nếu làm thành bột uống thì càng mịn càng tốt cho dễ uống.
+ Nếu dùng để chế thành viên hoặc hoàn tễ thì không cần mịn lắm cũng được..
SAO
-
Sao là phương pháp dùng hơi nóng của lửa làm cho thuốc khô, sém vàng
hoặc cháy đen. Mục đích để thay đổi tính năng của thuốc theo ý muốn của
người dùng.
- Dụng cụ để sao: thường là chảo bằng gang hoặc nồi bằng đất và một đôi đũa to để đảo thuốc.
- Có nhiều cách sao thường dùng:
+
Sao vàng: Sao cho đến khi vị thuốc bên ngoài có mầu vàng nhưng trong
ruột vẫn còn mầu như cũ. Khi sao, để lửa nhỏ, thời gian sao lâu. Mục
đích để cho thuốc bớt tính hàn.
+
Sao vàng hạ thổ: Quét sạch đất, sau khi sao thuốc xong, đổ trải thuốc
ra nền đất sạch, đậy lại, để khoảng 15 phút cho thuốc nguội. Mục đích để
khử hỏa độc do sao nóng của vị thuốc, làm cho thuốc tăng thêm phần âm
của đất để điều hòa âm dương (khí của đất là âm, khí của hỏa nhiệt khi
sao thuốc là dương).
+
Sao vàng xém cạnh: Sao làm cách nào để mặt ngoài thuốc hơi vàng xém
nhưng bên trong ruột không thay đổi mầu. Cách sao này thường dùng đối
với vị thuốc quá chua, chát như Hạt cau, Trần bì, Chỉ thực…
+
Sao đen: Dùng lửa to, dợi khi chảo thật nóng thì cho thuốc vào, đảo đều
cho đến khi thấy bên ngoài cháy đen, bẻ ra thấy bên trong mầu vàng là
được. Thường dùng để sao Toan táo nhân, Chi tử, Kinh giới… Nhằm mục đích
tăng tác dụng cầm máu hoặc tiêu thực của vị thuốc.
+
Sao tồn tính: Sao cho gần cháy hết nhưng chưa thành than. Dùng lửa to,
để cho chảo thật nóng, cho thuốc vào đảo đều cho đến khi thấy khói bốc
lên nhiều, bắc chảo xuống, đậy nắp lại cho hơi nóng nung nấu thuốc rồi
để nguội dùng. Thường dùng để tăng tác dụng cầm máu của thuốc như Trắc
bá diệp, Cỏ mực…
+
Sao với cát: Chọn loại cát nhỏ, mịn, rang cho nóng rồi mới cho thuốc
vào, trộn cho thật đều. Mục đích sao với cát là để lấy sức nóng lâu của
cát làm cho thuốc càng, phồng đều nhưng không cháy. Thường dùng sao các
vị Xuyên sơn giáp, Phá cố chỉ…
+
Sao với bột Hoạt thạch, Cáp phấn: để làm cho các vị thuốc có độ dẻo, có
chất keo, chất nhựa, dầu… không dính vào nhau như A giao, Một dược, Nhũ
hương…
+ Sao với cám: để rút bớt tinh dầu của vị thuốc ra như Chỉ thực, Thương truật, Trần bì…
TẨM
Mục đích là làm cho một chất lỏng khác thấm vào được thuốc.
Các
chất lỏng dùng để tẩm thường là Rượu, Giấm, nước Muối, nước cốt Gừng,
Đồng tiện (nước tiểu trẻ nhỏ)…. Thời gian ngâm từ 2 – 4 giờ hoặc có khi
phải ngâm qua đêm, ngâm mấy ngày… tùy yêu cầu của từng vị thuốc. Sau đó
lại sao cho khô.
Trung bình, cứ 1kg thuốc ngâm với 50 – 200ml.
+ Tẩm Rượu:
- Dùng rượu 30 – 400, trộn với thuốc, ngâm khoảng 2-3 giờ rồi sao vàng.
- Mục đích để giảm bớt tính hàn của thuốc, tăng thêm độ ấm.
- Rượu có tác dụng bốc và dẫn nhanh, vì vậy giúp cho thuốc đi nhanh ra các bộ phận cần dẫn thuốc đến.
+ Tẩm Nước Muối:
-
Dùng nước muối 20%, ngâm chung với thuốc 2 – 3 giờ rồi sao vàng. Thường
dùng muối với tỉ lệ 5% so với thuốc, để làm cho thuốc thêm mặn.
- Vị mặn là vị của Thận, vì thế muốn cho thuốc dẫn vào Thận, thì tẩm với nước muối.
+ Tẩm Giấm:
- Dùng 5% lượng Giấm ăn so với thuốc, ngâm ngập thuốc, để khoảng 1 – 2 giờ, đem sao.
- Vị chua đi vào kinh Can, vì vậy tẩm Giấm để dẫn thuốc đi vào Can.
+ Tẩm Đồng Tiện
- Dùng nước tiểu của trẻ nhỏ khỏe mạnh (lượng dùng là 5% so với thuốc), ngâm với thuốc từ 12 – 48 giờ rồi sao vàng.
- Tẩm nước tiểu để dẫn thuốc vào phần huyết và giáng hỏa.
+ Tẩm Nước Cốt Gừng
-
Dùng Gừng tươi (Sinh khương) rửa sạch, giã nát, cho váo ít nước, vắt
lấy nước cốt, ngâm với thuốc khoảng 1 giờ rồi sao vàng. Lượng nước cốt
Gừng dùng theo tỉ lệ 5 – 15% so với thuốc, tức là 50g – 150g Gừng tươi
cho 1kg thuốc.
-
Gừng có tính ôn ấm, kích thích tiêu hóa, vì vậy, tẩm vào thuốc sẽ giúp
cho thuốc đó bớt hàn, tăng tác dụng kiện Tỳ, hòa Vị, kích thích tiêu
hóa.
+ Tẩm Mật
Theo
các tài liệu cổ thường là tẩm Mật Ong, nhưng hiện nay, đa số là tẩm Mật
Mía. Thường pha một phần mật với một phần nước cho loãng rồi ngâm với
thuốc khoảng 4 – 6 giờ. Mục đích tẩm Mật để giảm bớt vị đắng, chát của
thuốc.
Vị ngọt đi vào Tỳ, vì vậy muốn tăng tác dụng kiện Tỳ của vị thuốc thì tẩm với mật.
+ Tẩm Nước Đậu Đen
Dùng
100g Đậu đen cho một lít nước, đun sôi một giờ, gạn lấy nước, ngâm với
thuốc. Thường theo tỉ lệ 10 – 20% so với thuốc. Tẩm nước Đậu đen thường
tăng ác dụng bổ Can Thận
+ Tẩm Nước Cam Thảo
Dùng 100g Cam thảo cho một lít nước, nấu sôi một giờ, gạn lấy nước, ngâm với thuốc, theo tỉ lệ 10 - 20 % so với thuốc.
Mục đích để giảm bớt độc tính của thuốc, làm cho thuốc êm dịu, đỡ chát.
+ Tẩm Nước Gạo
Dùng nước gạo đặc mới vo, ngâm với thuốc theo tỉ lệ 5 – 10%, để qua đêm, rồi sấy khô.
Mục đích để làm cho thuốc bớt tính ráo, nóng hoặc giảm bớt độc.
+ Tẩm Hoàng Thổ
Dùng
100g đất sét vàng (Hoàng thổ) cho vào 1 lít nước, đun sôi, khuấy đều.
Gạn bỏ nước phía trên, chỉ lấy nước ở giữa, bỏ căn, tẩm với thuốc theo
tỉ lệ 40 – 50%, để 2 –3 giờ rồi đem sao vàng.
Dùng Hoàng thổ sao để hút bớt tinh dầu có trong một số vị thuốc như Bạch truật, làm cho thuốc bớt tính ráo, nóng.
Mầu vàng là mầu của Tỳ, vì vậy, sao với Hoàng thổ để dẫn thuốc vào Tỳ, tăng tác dụng kiện Tỳ cho vị thuốc.
+ Tẩm Sữa
Ngày
xưa thường dùng sữa người (Nhân nhũ) và phải là loại sữa của người mới
sinh làn đầu (gọi là sữa con so), hiện nay có thể dùng sữa bò (nguyên
chất chứ không phải loại sữa đặc có đường đã pha chế), dùng một nửa sữa,
nửa nước để tẩm vào dược liệu, để khoảng 1-2 giờ rồi sao vàng. Mục đích
tẩm Sữa để làm bớt tính khô ráo của vị thuốc. Ngày xưa dùng sữa người
theo ý sữa là tinh huyết, tẩm vào thuốc để tăng tác dụng bổ huyết
Ủ
Dùng
lượng nước ít phun hoặc rắc cho thấm đều dược liệu rồi dùng vải ướt
hoặc bao tải đậy kín vài giờ hoặc vài ngày cho dược liệu mềm ra cho dễ
thái và chế biến, hoặc giúp cho dược liệu lên men… Phương pháp này dùng
cho các loại không thể ngâm lâu vì sợ mất hoạt chất như Ô dược, Tỳ giải,
Thổ phục linh…
Có một số dược liệu trước khi phơi cần phải ủ cho dược liệu lên men, có mầu đẹp như Ngưu tất, Đương quy, Huyền sâm…
THỦY PHI
Là phương pháp tán, nghiền thuốc ở trong dạng nước với mục đích lọc lấy bột thật mịn, loại bỏ được một số tạp chất.
Cho
bột thuốc vào vào cối lớn rồi cho nước vào ngập thuốc khoảng 3 – 5cm,
khuấy đều, vớt bỏ những tạp chất nổi trên mặt nước đi, rồi vừa khuấy nhẹ
vừa gạn thuốc sang bình đựng khác, còn cặn bỏ đi. Để cho nước lắng
xuống, gạn bỏ nước, lấy chất lắng đem phơi hoặc sấy khô. Thường dùng để
lọc các chất Long cốt, Ngũ linh chi, Chu sa, Thần sa…
THỦY BÀO
Nấu
nước sôi kỹ, để cho thuốc hơi hạ nhiệt xuống, còn khoảng 60 – 700, cho
thuốc vào quấy nhẹ liên tục cho đến khi nước nguội. Làm như vậy 2 – 3
lần.
Mục đích của thủy bào là làm giảm bớt tính mạnh của vị thuốc hoặc làm cho vị thuốc mềm, dễ cắt hoặc dễ bóc vỏ.
Thí dụ: Thủy bào Bán hạ cho bớt chất độc; Thủy bào Hạnh nhân, Đào nhân để dễ bóc vỏ…
CHÍCH
Dùng
mật tẩm dược liệu xong đem nướng (chích) cho đến khi thấy khô, thơm là
được. Mục đích lấy vị ngọt của mật làm tăng tác dụng kiện Tỳ của vị
thuốc. Thí dụ: Chích Hoàng kỳ, Chích Cam thảo…
ĐỐT
Thường
dùng cồn đốt rồi đem vị thuốc hơ lên lửa cho cháy lông, hơi rượu bốc
lên thấm vào thuốc làm cho thuốc có mùi thơm hơn, bớt tanh và bảo quản
được lâu. Nhung Hươu, Nai… thường dùng cách đốt này.
LÙI
Khi
tro bếp đang nóng, đặt vị thuốc vào trong đó để láy sức nóng của tro
làm cho thuốc chín. Khi áp dụng phương pháp này, thường dùng giấy bản
ướt hoặc lấy Cám ướt bọc bên ngoài vị thuốc, đến khi giấy hoặc cám khô
hẳn là được. Mục đích là tăng thêm tính ấm của vị thuốc đó. Thí dụ như
Gừng, Cam thảo, Mộc hương…
NUNG
Dùng
nhiệt độ cao để đốt trực tiếp vị thuốc đó cho chảy hoặc dễ tán thành
bột. Thí dụ như Phèn chua (nung cho chảy ra, gọi là Phèn phi), Mẫu lệ,
Thạch cao thường là nung cho đỏ để dễ tán thành bột.
SẮC
Cho
thuốc vào nồi đất (siêu) hoặc dụng cụ để nấu… cho nước theo yêu cầu
(thường là 4 chén nước), đun sôi nhẹ một thời gian cho thuốc thấm ra
hết, chiết lấy nước để dùng như thang thuốc sắc vẫn thường dùng.
NGÂM
Dùng
một chất khác (nước, nước muối, Đồng tiện, rượu…) ngâm với vị thuốc
muốn dùng để làm cho thuốc mềm hơn, giảm trừ bớt độc tính của thuốc hoặc
tăng tác dụng khác cho vị thuốc đó.
Thí dụ:
+ Bán hạ ngâm nước Gừng để giảm bớt độc tính của thuốc.
+ Đỗ trọng ngâm nước muối để tăng tác dụng bổ Thận.
+ Hậu phác ngâm nước Gừng để tăngtác dụng tiêu thực…
HÃM
Dùng
nước đang sôi rót vào dược liệu rồi đậy kín lại cho thuốc thấm ra trong
thời gian theo yêu cầu từng vị thuốc. Phương pháp này dùng cho các vị
thuốc mềm như hoa, lá non, rễ nhỏ… Thường dùng dưới dạng chế biến thành
chè để uống.
ĐỒ
Dùng
hơi nóng của nước làm cho vị thuốc mềm ra, dễ thái. Thường dùng đối với
các vị thuốc mà nếu ngâm sẽ làm mất hoạt chất của thuốc đi như Hoài
sơn, Phục linh…
CHƯNG
Chế
biến thuốc bằng cách nấu cách thủy, lấy hơi của dung dịch chế biến làm
cho chất thuốc thay đổi. Thí dụ: Dùng rượu và Sa nhân chưng Sinh địa...
Cách
thực hiện: Cho thuốc vào thùng, đặt vào một thùng khác to hơn (đã chứa ½
thùng nước), đậy nắp lại. Nấu sôi trong 24 giờ, khi nước cạn lại đổ
thêm nước vào nấu. Ngày hôm sau, lấy vị thuốc ra, phơi hoặc sấy khô rồi
lại tiếp tục chưng và phơi như trên đủ 9 lần, gọi là ‘Cửu chưng cửu
sái’. Lúc đó, vị Sinh địa sẽ biến thành Thục địa.
XÔNG
Mục đích xông làm cho thuốc khô, chống mọt, để được lâu.
Có
thể xông bằng Diêm sinh (Lưu huỳnh). Thí dụ: Bạch chỉ, Hoài sơn xông
bằng Lưu huỳnh sẽ có mầu trắng tinh; Ngưu tất xông Lưu huỳnh và ủ kỹ sẽ
có mầu hồng trong…
Những điểm cần lưu ý khi xông bằng Diêm sinh:
- Khi sấy bằng Diêm sinh cần tính toán lượng Diêm sinh cho phù hợp với lượng thuốc cần xông.
Có thể theo cách sau:
+ Những lần sấy đầu: cứ 100kg thuốc, dùng 0,800g – 1,2kg Diêm sinh, đốt làm hai lần.
+ Những lần xông định kỳ để Bảo quản: cứ 100kg thuốc dùng 0,100 – 0,150kg Diêm sinh.
- Khi sấy bằng Diêm sinh, nên xếp thuốc thành từng lớp ngang, dọc khác nhau để cho hơi của Diêm sinh tỏa thấm đều tất cả thuốc.
- Hơi Diêm sinh bốc lên có độc, vì vậy chỗ sấy phải làm nơi thoáng. Lò sấy phải kín.
-
Sau khi xông xong, phải mở cửa buồng sấy cho tỏa bớt hơi Diêm sinh đi
rồi mới lấy dược liệu ra để tránh bị ngộ độc, nghẹt thở do hơi độc của
Diêm sinh.
- Vị Cam thảo bắc không bao giờ được sấy bằng Diêm sinh.
Một vài lưu ý khi chế biến thuốc:
+ Để ý phòng cháy nhất là những khâu sao thuốc. Nếu sơ ý sẽ dễ cháy thuốc lẫn vật dụng chung quanh.
+ Nếu xông thuốc, cần đeo khẩu trang tránh hơi độc của Diêm sinh hoặc Luu huỳnh bốc lên.
+ Một vài dược liệu có chất ăn da, khi rửa, nên để ở dưới vòi nước chảy. Thí dụ:
- Bạch chỉ nếu rửa vào chậu nước trong nhiều giờ chất Acid Angelic sẽ làm phồng và loét da tay.
- Bán hạ, Thiên niên kiện nếu rửa lâu sẽ gây dị ứng lở ngứa da.
0 nhận xét: