Hiển thị các bài đăng có nhãn thuốc nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

Bài thuốc chữa bệnh Tiêu hóa kém rất hiệu quả từ Cây Nghệ đen

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Bài thuốc chữa bệnh Tiêu hóa kém rất hiệu quả từ Cây Nghệ đen
 
Nghệ đen có nguồn gốc từ miền Đông Bắc và Trung Ấn Độ. Ngày nay, cây nghệ đen xuất hiện khắp vùng châu Á bao gồm: Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia, Campuchia, Lào, Việt Nam, Trung Quốc… Ở Việt Nam, nghệ đen trồng rộng rãi ở khắp các tỉnh miền núi phía Bắc.
nghe den

Nghệ đen thuộc họ gừng, có mặt ở một số phương thuốc chữa bệnh trong y học cổ truyền với tên gọi là nga truật. Ngoài ra, trong dân gian chúng còn có một số tên như: nghệ tím, ngải tím, bồng truật, ngải xanh, bồng nga, bồng dược, nghệ đăm…Nghệ đen được đào lên và bào chế bằng cách rửa sạch đất, thái mỏng, phơi khô để sắc (nấu) uống hoặc phơi khô xay bột để dùng dần, có khi tẩm giấm, sao khô…
Theo Đông y, nghệ đen có vị đắng, cay, mùi thơm hăng, tính ấm, vào kinh Can có tác dụng hành khí, thông huyết, tiêu thực, mạnh tì vị, kích thích tiêu hóa, tiêu viêm, tiêu xơ, chữa các chứng rối loạn tiêu hóa, viêm loét dạ dày, kinh nguyệt không đều…Trong Trung Quốc bách khoa đại từ điển, nghệ đen được xem là chữa “bách bệnh”. Dưới đây là một số bài thuốc thường dùng.
cu nghe den
- Chữa chứng kém ăn, chậm tiêu, đầy hơi, mệt mỏi, lạnh bụng, đại tiện phân sống, nấm mạn tính đường ruột: Nga truật 160g, cốc nha 20g, khiên ngưu (sao) 40g, hạt cau 40g, đăng tâm (bấc lung) 16g, nam mộc hương 20g, củ gấu 160g, tam lăng 160g, đinh hương 16g. Tất cả các vị tán thành bột mịn, hoàn thành viên cho dễ uống. Ngày uống 8-12g với nước sắc gừng (nướng chín).
- Bổ khí, dưỡng huyết, trị bệnh về khí huyết: Nga truật (nghệ đen),  bạch chỉ, hồi hương, cam thảo, đương quy, thục địa, bạch thược, xuyên khung mỗi thứ 40g. Tất cả đem tán thành bột mịn, hoàn thành viên. Uống ngày 8-12g với nước ấm.
- Ăn uống không tiêu hay trướng bụng, ợ chua: Nga truật 12g, tam lăng 12g, trần bì (vỏ quýt), hương phụ, la bặc tử, sa nhân, thanh bì, chỉ xác mỗi loại 6g, hồ liên 4g, lô hội 2g, hồ tiêu 4g. Tất cả đem tán thành bột mịn, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 4-8g với nước ấm.
- Trị đau bụng do bế kinh: Nga truật, xuyên khung, xích thược, quy vĩ, bạch chỉ, hương phụ mỗi loại 6g, thục địa 12g. Tất cả đem tán thành bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6-12g với nước ấm. Hoặc có thể sắc uống, đem những vị thuốc trên nấu với 600ml nước còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày.
Ngoài ra, kinh nghiệm dân gian còn dùng nghệ đen tán thành bột uống với mật ong để chữa trị viêm loét dạ dày cũng có hiệu quả. Chúng còn được chiết xuất lấy dầu, được nghiên cứu hỗ trợ điều trị ức chế và phá tế bào ung thư gan…
Lưu ý: Do tác dụng hoạt huyết phá ứ rất mạnh nên nghệ đen không được dùng cho phụ nữ có thai và những người bị rong kinh.
Loài cây dễ trồng
Nghệ đen là loài cây thảo, cao 1-1,5m, thân rễ có vân ngang và khía dọc, mang những củ hình trụ, thân rễ còn mang củ hình trái xoan hoặc hình trứng, màu trắng, có cuốn dài và mảnh. Lá hình mũi mác, không cuống, có bẹ dài ở gốc, đầu nhọn có đốm tía dọc theo gân giữa ở mặt trên.
Nghệ đen thường mọc thành khóm, đôi khi trở thành quần thể trên đất ẩm, gần bờ suối trong thung lũng hay trên nương rẫy. Cây ưa sáng và chịu nóng. Vào giữa mùa xuân, từ thân rễ mọc lên nhiều thân khí sinh. Song trong khóm thường chỉ có một thân chính sinh ra từ thân rễ. Phần thân rễ này gọi là “củ cái”, chỉ tồn tại được 2 năm rồi tự thối rữa, để lại các phần thân rễ non hơn phát triển thành những “củ cái” mới. Có thể trồng nghệ đen bằng củ rễ vào mùa xuân, thu hoạch vào mùa đông. Khi thu hoạch, chọn củ non có mầm để làm giống.

Cây chó đẻ – Diệp Hạ Châu cây thuốc của bệnh gan

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Cây chó đẻ – Diệp Hạ Châu cây thuốc của bệnh gan
 
Cây chó đẻ còn gọi là chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu, diệp hạ châu đắng, diệp hòe thái, lão nha châu. Tên Hán Việt khác như trân châu thảo, nhật khai dạ bế, diệp hậu châu. Cây có hạt tròn xếp thành hàng dưới lá nên gọi là diệp hạ châu (diệp: lá, hạ: dưới, châu: ngọc tròn). Có hai loại: diệp hạ châu ngọt (phyllanthus urinaria L.) và diệp hạ châu đắng (phyllanthus amarus schum et thonn), cùng họ thầu dầu (euphorbiaceae). Cả 2 loại đều giàu dược tính nên ngay từ xa xưa, 2 loại này đã được dùng làm thuốc. Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây (được cắt phần trên mặt đất của cây).
Đông y cũng cho rằng cây chó đẻ có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát khuẩn, tốn ứ, thông huyết, điều kinh, thanh cân, hạ nhiệt..., thường được dùng làm thuốc chữa các bệnh đau gan, đau thận, bệnh về đường tiết niệu, đường ruột, bệnh chứng ở ngoài da.
Cây chó đẻ - diệp hạ châu

Ngoài ra, cây chó đẻ còn trị được nhiều bệnh, dưới đây, xin nêu một số cách trị bệnh từ cây chó đẻ:
Chữa viêm gan B: cây chó đẻ 30g, nhân trần 12g, sài hồ 12g, chi từ 8g, hạ khô thảo 12g, sắc (nấu) uống ngày 1 thang.
Chữa xơ gan cổ trướng thể nặng: cây chó đẻ sao khô 100g sắc nước 3 lần. Trộn chung nước sắc, thêm 150g đường, đun sôi cho tan đường, chia nhiều lần uống trong ngày (thuốc rất đắng), liệu trình 30 - 40 ngày. Khẩu phần hằng ngày phải hạn chế muối, tăng đạm (thịt, cá, trứng, đậu phụ).
Chữa suy gan (do sốt rét, sán lá, lỵ amip, ứ mật, nhiễm độc): cây chó đẻ sao khô 20g, cam thảo đất sao khô 20g. Sắc nước uống hằng ngày.

Chữa nhọt độc sưng đau: dùng một nắm cây chó đẻ với một ít muối giã nhỏ, chế nước chín vào, vắt lấy nước cốt uống, dùng bã đắp chỗ đau.
Chữa viêm gan, vàng da, viêm thận đái đỏ hoặc viêm ruột tiêu chảy, hoặc mắt đau sưng đỏ: dùng cây chó đẻ 40g, mã đề 20g, dành dành 12g để sắc uống.
- Chữa sốt rét: dùng cây chó đẻ 8g, thảo quả, dây hà thủ ô, lá mãng cầu ta tươi, thường sơn, dây gắm mỗi vị 10g, bình lang (hạt cau), ô mai, dây cóc mỗi vị 4g đem sắc với 600ml nước, còn 200ml, chia uống 2 lần trước khi lên cơn sốt rét 2 giờ. Nếu không hết cơn, thêm sài hồ 10g.
 - Chữa ăn không ngon miệng, đau bụng, sốt, nước tiểu màu sẫm: dùng cây chó đẻ 1g, nhọ nồi 2g, xuyên tâm liên 1g. Tất cả các vị thuốc trên phơi khô trong bóng râm và tán bột. Sắc bột thuốc này và uống hết ngay một lúc. Uống mỗi ngày 3 lần (y học dân gian Ấn Độ).
Lưu ý tránh nhầm lẫn với cây chó đẻ là cây hy thiêm (siegesbeckia orientalis - thuộc họ cúc).   

     Hiện nay cơ sở chúng tôi hiện đangh cung cấp thảo dược Diệp hạ châu: Sản phẩm thu hái trên rừng Hòa Bình và đã được sấy khô đóng gói:

Cây cỏ mực ( Nhọ nồi) một dược liệu quý có ở quanh ta

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Cây cỏ mực ( Nhọ nồi) một dược liệu quý có ở quanh ta
 
Cỏ mực là loài mọc hoang khắp nơi ở nước ta. Đó là loài cây nhỏ, thân có lông; lá mọc đối hình xoan dài, có lông hai mặt; hoa trắng nhỏ; đặc điểm nổi bật của cây này là khi vò nát có màu đen như mực - cho nên có tên gọi là "cỏ mực". 
     Trong dân gian thường gọi là " cỏ nhọ nồi", còn gọi là "hạn liên thảo", "mặc hạn liên", "kim lăng thảo"... Tên khoa học là Eclipta prostrata L. [E. Alba (L.) Hassk]. 



     Các nghiên cứu trong y học hiện đại đã phát hiện thấy trong cỏ mực có saponin, tanin, chất đắng, caroten, ancaloit, tinh dầu, vitamin E, vitamin A... Cỏ mực có những tác dụng dược lý như sau: 

 1. Cầm máu: Chất tanin trong cỏ mực có tác dụng làm tăng tốc độ đông máu. Các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành thực nghiệm: cắt đứt động mạch đùi chó, dùng bột cỏ mực tán mịn đắp lên chỗ đứt, ấn nhẹ vào, thấy có tác dụng cầm máu tốt. 2. Diệt khuẩn, tiêu viêm: Có tác dụng diệt một số tụ cầu khuẩn, trực khuẩn bạch hầu (bacillus diphtheria), trực khuẩn viêm ruột (bacillus enteritidis) và có tác dụng nhất định đối với amip. Được dùng để chữa trị một số bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ngoài da.
3. Tăng cường miễn dịch, ức chế ung thư: Kích hoạt hệ miễn dịch, đặc biệt là đối với tế bào limphô T (T - lymphocytes); có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, đặc biệt đối với ung thư dạ dày.
4. Dưỡng da, đen tóc: Cỏ mực có tác dụng cải thiện quá trình tuần hoàn máu ngoài da (đặc biệt là da đầu), giúp cho da thịt, đầu tóc được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, nhờ vậy da dẻ trở nên mịn màng, râu tóc thêm đen mượt.
Còn theo y học cổ truyền: Cỏ mực có vị ngọt, chua; tính mát; vào các kinh Can và Thận; có tác dụng tư âm (nuôi âm), bổ thận; làm mịn da, đen tóc, chắc răng; lương huyết (mát máu), chỉ huyết (cầm máu). Sách Tân Tu Bản Thảo viết: "... vết thương đang chảy máu, đắp cỏ mực vào máu sẽ lập tức cầm lại; lấy nước cốt bôi lên lông mày và tóc thì sẽ mọc tốt hơn". Còn sách Thiên Kim Nguyệt Lệnh viết: "Lấy nước cốt cỏ mực, trộn với nước gừng và mật, uống vào sẽ làm cho râu tóc đang bạc hóa đen".
Hiện tại cỏ mực thường sử dụng để chữa da thô nháp, da mặt đen sạm, tóc bạc sớm, răng đau lung lay, âm hư huyết nhiệt, chóng mặt hoa mắt, nôn ra máu, đại tiện ra máu, can thận âm hư... Và dưới đây là một số phương thuốc cụ thể:
* Chữa râu tóc bạc sớm, tóc rụng, chóng mặt hoa mắt do can thận âm hư tổn
Bài 1: Cỏ mực 15gr, sinh địa 15gr; sắc nước uống mỗi ngày 1 tễ; chia làm 2 lần uống vào buổi sáng và buổi chiều. Uống liên tục 30 ngày (1 liệu trình); nghỉ vài hôm rồi lại tiếp tục.
Bài 2: Cỏ mực 25gr, hoa cúc trắng 15gr, sinh địa 15gr; sắc lấy nước, bỏ bã, uống thay nước trà hàng ngày. Mỗi ngày 1 tễ; liên tục 30 ngày.
Bài 3: Cỏ mực 15gr, nữ trinh tử 15gr, thục địa 10gr, hà thủ ô chế 15gr; sắc lấy nước, mỗi ngày 1 tễ; liên tục 30 ngày.
* Chữa ho ra máu
Cỏ mực 25gr, bạch cập 20gr, a giao 10gr. Đem cỏ mực và bạch cập sắc lấy nước, đổ vào bát, sau đó cho a giao vào trộn đều. Mỗi ngày 1 tễ, chia ra 2 lần trong ngày; liên tục trong 7 ngày.
* Chữa sỏi thận, tiểu tiện ra máu
Cỏ mực 15gr, cỏ mã đề (xa tiền thảo) 15gr, đường trắng vừa đủ ngọt. Đem cỏ mực và mã đề sắc lấy nước; khi uống rót nước thuốc ra bát, sau đó cho thêm đường vào cho đủ ngọt. Mỗi ngày 1 tễ, chia ra nhiều lần uống thay trà trong ngày; liên tục trong 20 ngày.
* Mũi thường chảy máu
Cỏ mực 25gr, ngó sen 20gr. Sắc lấy nước; chia 2 lần vào sáng và chiều; liên tục trong 20 ngày.
* Chữa đao thương chảy máu
Lấy cỏ mực đem giã nát đắp lên chỗ bị thương. Cũng có thể đem cỏ mực phơi khô, tán mịn, rắc lên vết thương.
* Hỗ trợ trong điều trị chứng giảm tiểu cầu máu
Cỏ mực 10gr, nhân sâm 5gr (nếu không có thay bằng đẳng sâm 12gr), gạo tẻ 50g, đường trắng vừa đủ. Nhân sâm thái thành lát mỏng, hấp chín. Cỏ mực rửa sạch, sắc lấy nước để nấu cháo. Sau khi cháo chín, cho sâm vào, thêm chút đường cho đủ ngọt. Dùng mỗi ngày 1 lần, ăn thay bữa điểm tâm buổi sáng; liên tục trong 5 ngày.
* Phòng và chữa viêm da khi làm ruộng nước
Lấy cỏ mực tươi 1 nắm - khoảng 50gr, rửa sạch, vò nát rồi sát lên chân và tay cho đến khi màu da chuyển sang tím đen nhạt. Chờ một lát cho da khô, rồi có thể xuống ruộng nước làm việc.
Thời trước, những người thợ nề hay lấy cỏ mực sát lên tay để chữa chứng bỏng rát do vôi vữa gây nên. Chất tanin và một số hoạt chất khác trong cỏ mực có tác dụng làm săn da và phòng viêm nhiễm ngoài da rất tốt. Tại Trung Quốc, các thầy thuốc đã chế ra một loại cao mềm từ cỏ mực, chuyên dùng để phòng viêm da khi làm việc dưới ruộng nước.
* Phụ nữ ngứa âm đạo
Lấy cỏ mực tươi khoảng 100gr, sắc nước để rửa ngoài âm đạo. Có thể thêm chút câu đằng vào sắc cùng càng tốt.(Huyên Thảo)
Sưu tầm

Tác dụng của Giá đỗ

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Giá đậu xanh
Giá đậu xanh được dùng nhiều nhất để ăn và làm thuốc. Giá đậu xanh dùng an toàn hơn cả, vì dễ tiêu hóa, chữa được nhiều bệnh và đặc biệt ở tính chất giải độc đa năng nội ngoại sinh. Giá đậu xanh có đủ các chất dinh dưỡng (đạm béo đường, vitamin, khoáng) đặc biệt là nhiều vitamin C và E, phytosterol, cho lượng calo thấp. Thường được dùng cho người bị viêm thanh quản mất tiếng, vận động thể thao bị mỏi cơ, người béo phì, đái tháo đường, bệnh tim mạch, tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, cholesterol máu cao, hiếm muộn, dễ sẩy thai, còn có tác dụng khử gốc tự do, chống lão hóa,…
gia do
Giá đậu là thực phẩm bổ dưỡng và là vị thuốc chữa nhiều bệnh.
gia do sao
Giá đậu nành (đậu tương)
So với hạt thì giá đậu tương có vitamin B2 gấp 2-4 lần, B12 gấp 10 lần, C gấp 40 lần, caroten (tiền sinh tố A) gấp 2-3 lần, vitamin nhóm B tăng 30 lần. Giá đậu nành chứa nhiều protein và protein này rất tốt để thay thế cho protein động vật vì ít chất béo, đặc biệt trong mầm đậu tương chứa chất isoflavones tương tự kích tố nữ estrogen để phòng chữa một số bệnh đặc biệt là sức khỏe phụ nữ, giảm các nguy cơ bệnh tim, loãng xương và duy trì thời xuân sắc cho phụ nữ…
Giá đậu được dùng làm thuốc trong những trường hợp sau:
 Viêm họng, ho khan, tiểu ít: sắc giá đậu tương với ít trần bì (vỏ quýt lâu năm) để ngậm, uống.
Dạ dày tích nhiệt: giá đậu tương 500g, tiết lợn sống 500g. Nấu canh ăn.
Hạ mỡ máu, chống béo, hạ huyết áp, chữa suy nhược: giá đậu tương 250g, đậu phụ 200g, dưa cải 100g, dầu đậu tương, gia vị. Xào giá rồi cho nước đun sôi, cho giá chín, tiếp cho đậu phụ dưa cải, hầm kỹ để ăn.
Phụ nữ có thai, tăng huyết áp: dùng giá đậu tương đun kỹ lấy nước uống nóng. Ngày 2 lần.
Da khô, nếp nhăn, đồi mồi: giá đậu tương khô 500g rang tán nhỏ mịn trộn ít rượu trắng. Uống 3g mỗi lần. Ngày 3 lần liên tục 3 tháng.
Hỗ trợ điều trị ung thư: nấu giá đậu tương với cam thảo uống nâng cao hiệu quả các trị liệu ung thư, giảm thiểu độc hại của hóa trị, xạ trị.
Giá đậu đen
Giá đậu đen có vị ngọt, tính bình, không độc. Trị chứng tê thấp, gân co rút, trừ hơi nóng trong dạ dày. Bổ khí, nhuận da, mạnh cả ngũ tạng. Ngày dùng 20-60g hoặc nhiều hơn.
Trị phong hàn, gió độc, tà khí phạm vào huyết mạch gây phù, nặng nề, tê dại, đau nhứ cơ khớp: giá đậu đen 500g, sao thơm tán mịn. Mỗi lần dùng 10g với ít rượu nóng. Ngày 3 lần.
Trị phù thũng, thở nhanh yếu, đại tiểu tiện ít, khó đi: giá đậu đen sao giấm 1 phần. Đại hoàng sao 1 phần. Tán mịn mỗi lần uống 8g với nước trần bì sắc đặc. Ngày 2 lần. Thấy đại tiểu tiện đã thông thì thôi uống.
Trị phong thấp tê, gân co rút, đau gối nhức, bụng nóng, đại tiện táo: giá đậu đen 100g tẩm giấm sao vàng tán mịn. Mỗi lần uống 1 muỗng với ít rượu trước khi ăn. Ngày 2-3 lần.
Giá đậu đỏ
Chữa phù nề: Canh chua đầu cá chép với giá đậu đỏ.
Lưu ý: Giá là loại rau sạch nếu được sản xuất theo quy trình cổ điển. Cần cảnh giác với loại giá bằng cách ướp những chất kích sinh (có độc) để nhanh tạo ra giá mập, đẹp mắt.
BS. Phó Thuần Hương

4 loại cây thuốc nam chữa bệnh thận hư

Người đăng: Nguyễn Hoàng Anh's Blog

Người đầu tiên chúng tôi đến thăm là bà Đinh Thị Giàu (70 tuổi) ở thôn Phước Thọ (xã Mỹ Hòa), một bệnh nhân của bệnh hư thận tưởng chừng không thể cứu chữa được đã trở lại đời sống bình thường. Tiếp chuyện với chúng tôi, bà không giấu được niềm vui khi "may mắn" thoát khỏi lưỡi hái của tử thần.
Cây mực
Một buổi tối mùa hè gần 7 năm về trước, bà phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch: đi tiểu không được, cơ thể bị phù ứ. Các bác sĩ Quân y viện 13 đã xác định nguyên nhân khiến bà Giàu bị như thế là bởi thận của bà bị suy nặng, nghiêm trọng hơn là cả 1 quả thận bị thối rữa gần hết, không còn tác dụng. Để cứu lấy sinh mệnh của bệnh nhân, bác sĩ quyết định mổ và cắt bỏ quả thận bị hư. Nhưng đến giữa tháng 11-2002 thì bệnh cũ lại tái phát, cơ thể bị phù nặng hơn, chịu không nổi, bà Giàu lại tiếp tục nhập viện lần thứ 2. Đợt cứu chữa lần này, Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định đành phải bó tay bởi quả thận còn sót lại được thể hiện trên phim X quang cũng đã thối rữa, hoạt động rất thoi thóp. Gia đình bà không còn cách gì khác ngoài việc đưa bà về nhà và chờ đón ngày tiễn đưa bà về với tổ tiên.
Cây nổ
Thế nhưng số bà cũng thật may mắn. Chị Kim Anh - con gái của bà cho hay: "Sau khi chúng tôi đưa bà về nhà thì được chị Dung ở thôn Hội Khánh bày cách chữa thận và hái cho gia đình một bài thuốc nam, gồm 4 loại cây. Thú thật bây giờ nói 4 loại cây thuốc ấy tên gì tôi cũng không nhớ rõ tên. Chúng tôi chỉ nghĩ, thôi thì cứ coi đây như một cuộc "thử nghiệm", biết đâu ông trời thương thì má tôi qua khỏi. Vậy là chúng tôi hái về nhà sắc thuốc, rồi cho má tôi uống như kiểu uống trà. Phương pháp điều trị quá đơn giản vậy mà hiệu nghiệm thật bất ngờ. Má tôi đã thoát khỏi cơn hiểm nghèo. Sau 1 canh giờ dùng thuốc đã có tác dụng, bà cảm thấy mắc tiểu và đi liên tục nửa tiếng 1 lần. Những chỗ phù trướng trên cơ thể đã chuyển về trạng thái ban đầu và xẹp xuống hoàn toàn. Tuy nhiên để chắc ăn, mấy ngày sau chúng tôi tiếp tục sắc một ít lá cây thuốc nam còn lại đó cho bà uống thêm. Được 1 tuần sau thì bà đã tự ngồi dậy được và cũng tự mình đi lại, làm vệ sinh cá nhân mà không cần người phụ giúp. Sức khỏe của bà ngày càng khá lên dù những ngày sau bà không dùng thuốc nữa. Ăn uống cũng bình thường trở lại và bây giờ bà vẫn bình an."
Thuốc nam chữa sỏi thận
Còn bà Giàu tâm sự: "Đúng là khi uống thuốc được sắc từ 4 loại cây thuốc nam này, tui đã khỏe lên rất nhiều, không còn cảm giác mệt mỏi vì bệnh nữa. Dù hiện thời không biết mình có thể sống được bao lâu nữa, nhưng sau lần "trở về" này, tui vui lắm! Hi vọng bài thuốc chữa thận đầy hiệu quả này không chỉ có ích cho tui mà nó sẽ được phổ biến để có thể chữa trị cho những người cũng có chứng bệnh này".
Cây muối
Sau đó, bà chỉ đường cho chúng tôi tìm đến nhà chị Đoàn Thị Dung - tác giả bài thuốc nam kỳ diệu đã cứu sống sinh mạng bà. Lòng vòng mãi trong con xóm nhỏ ở thôn Hội Khánh, cuối cùng chúng tôi cũng đã tìm được nhà chị Dung. Biết ý định của chúng tôi khi tìm đến, chị Dung thật cởi mở và chân tình, kể lại câu chuyện về bài thuốc nam ấy. "Thật ra hồi ấy mình chẳng tài giỏi gì mà biết bài thuốc đó, tất cả chỉ là tình cờ có được trong sự đau khổ khôn cùng. Số là 9 năm về trước, khi con bé Trần Thị Thanh Tuyền con mình được 4 tuổi thì tự nhiên nó mắc chứng bệnh kỳ lạ, toàn thân cứ sưng phù lên ngày một nặng, dẫn đến tình trạng cháu nằm một chỗ, không làm sao đi lại được. Con bị như thế, vợ chồng mình đau xót ruột gan, hễ ai nói bệnh gì dùng thuốc điều trị nào thì mình cũng đều không từ bỏ. Vậy mà bệnh tình không thuyên giảm chút nào. Cả 2 vợ chồng nhìn con đau đớn nghẹn ngào không biết nói gì thêm nữa. Rồi một chiều tình cờ mình lục tìm một vật dụng cá nhân trong cái lẫm đựng thóc của gia đình, đã phát hiện đó có một cuốn sách cũ. Lật ra thì thấy có bài thuốc nam này nhưng tiếc là nó đã rách hết một nửa. Như trong sách hướng dẫn, mình tìm hiểu thì biết 4 loại cây này ở địa phương mình thường có tên gọi là: cây muối, cây quýt gai, cây mực và cây nổ. Bẻ cả cành và lá mỗi cây mỗi thứ một ít, rồi mình đem sao tất cả. Sau đó cho vào ấm đất sắc 6 chén chỉ còn một cho cháu uống. Không ngờ cháu lại đi tiểu liên tục ngay trong đêm đầu tiên sau khi uống chén thuốc đó. Cứ thế da xộp xuống hẳn và sau đó cháu đã đi cầu. Tui còn phát hiện khi cháu đi cầu, trong phân có rất nhiều viên trắng giống như hạt sạn trong dầu cá. Thấy hiệu quả bài thuốc như vậy, tui cho cháu uống liền liên tục trong nửa tháng rồi ngừng hẳn. Nay cháu được 13 tuổi rồi, bệnh cũ không hề tái phát lần nào mà những bệnh khác cũng không có, chỉ thỉnh thoảng khi "trái gió trở trời" cháu bị cảm xoàng thôi. Mấy năm sau tui cũng dùng 4 loại cây thuốc nam này để chữa cho bà Mười Chính (51 tuổi) ở cùng thôn bị phù thận. Giờ thì bà này đã khỏi bệnh hẳn và rất khỏemạnh. Và bà Giàu mà anh chị vừa gặp đó là người thứ 3 được thần chết tha mạng nhờ bài thuốc này đấy." - chị kể.
Viết lại chuyện này, chúng tôi chỉ mong muốn các cơ quan chức năng, các thầy thuốc cùng "vào cuộc", nghiên cứu xác định một cách khoa học về bài thuốc nam nêu trên để có thể phổ biến rộng rãi.